Từ Ô Lâu đến Hải Vân
Những bí ẩn về kho báu của vua Hàm Nghi
08:14 | 09/10/2013

Hàm Nghi là vị vua thứ 8 của triều Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam. Lên ngôi khi mới 13 tuổi nhưng Vua Hàm Nghi đã sớm chứng tỏ tinh thần yêu nước của mình. Ông kiên quyết không hợp tác với thực dân Pháp và chịu nhiều khổ ải trong suốt cuộc đời. Gắn liền với vị vua yêu nước này còn là câu chuyện chưa có lời giải về một kho báu bí ẩn.

Những bí ẩn về kho báu của vua Hàm Nghi
Hình minh họa.
Phong trào Cần Vương và lời đồn đoán về kho báu khổng lồ
 
Câu chuyện về kho báu của Vua Hàm Nghi gắn liền với việc vua quyết từ bỏ ngai vàng, lãnh đạo phong trào Cần Vương chống lại thực dân Pháp. Theo một số bằng chứng mà một nhà truyền giáo người Pháp là Henri de Pirey, đã viết trên tạp chí Bulletin des amis du vieux Huế năm 1914 rằng khi rút khỏi kinh thành Huế, vua Hàm Nghi đã chuyển kho báu của hoàng cung đến phía Bắc. 
 
Kho báu này ước chừng 950 thùng, trong đó có 400 thùng đựng đầy vàng và 150 thùng đựng đầy bạc, số còn lại là các đồ đá quý nhất trong nước. Tuy nhiên, vì cuộc chiến nên nhà vua chỉ mang theo 100 thùng. Thế nhưng, cho đến nay, sự thực về kho báu này vẫn còn là một ẩn số, chờ đợi được giải mã.
 
Đêm ngày 22, rạng sáng ngày 23 tháng 4 âm lịch (tức ngày mùng 5, mùng 6 tháng 7 năm 1885), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, vì thấy người Pháp khinh vua mình nên quyết định ra tay. Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Trường đem quân tấn công trại binh của Pháp ở đồn Mang Cá. Đến sáng thì quân Pháp phản công, quân triều Nguyễn thua chạy, rời bỏ kinh thành Huế. 
 
Tôn Thất Thuyết vào cung báo lại việc giao chiến trong đêm và mời vị hoàng đế trẻ Hàm Nghi cùng Tam cung lên đường. Nghe chuyện phải rời khỏi thành, Vua Hàm Nghi đã thảng thốt nói: “Ta có đánh nhau với ai mô mà phải chạy”. Vua Hàm Nghi ngồi trong kiệu bị chao đảo liên tục, đầu bị va đập nhiều lần vào thành kiệu rất đau, sau cùng, nhà vua phải xuống nằm trên võng cho lính cáng. Nguyễn Văn Tường cho người rước Vua Hàm Nghi tới thành Quảng Trị để lánh nạn. Chiều ngày 6 tháng 7 thì cả đoàn mới tới Quảng Trị. 
 
Tuy nhiên, sau đó Nguyễn Văn Tường lại ra trình diện với quân Pháp. Tướng de Courcy hẹn cho Nguyễn Văn Tường hai tháng phải tìm cách để rước vua về. Nguyễn Văn Tường viết sớ ra Quảng Trị xin rước vua về nhưng ông Tôn Thất Thuyết cản thư, không cho vua biết. Hết hạn 2 tháng, cả gia đình Nguyễn Văn Tường bị de Courcy đày ra Côn Đảo, sau đó đưa tới đảo Tahiti ở Thái Bình Dương. Một thời gian sau Nguyễn Văn Tường qua đời, xác được đưa về Việt Nam. Ngày 9 tháng 7, dưới áp lực của Tôn Thất Thuyết, Vua Hàm Nghi đành từ biệt Tam cung, lên đường đi Tân Sở.
 
Tại Tân Sở, Vua Hàm Nghi tuyên hịch Cần Vương kêu gọi sĩ phu và dân chúng nổi dậy chống Pháp giành độc lập. Sự ủng hộ, che chở giúp đỡ và tham gia nhiệt tình của đồng bào các địa phương từ Quảng Trị qua tới đất Lào cũng như trong vùng Hà Tĩnh, Quảng Bình đã cho Hàm Nghi thấy được vai trò của bản thân mình nên nhà vua đã không còn cảm thấy bị cưỡng ép như trước. 
 
Nhà vua đã bắt đầu nếm trải những gian lao và trở thành người nhẫn nại. Nhà vua trẻ cũng đã “đón cuộc phong trần bằng thái độ rất thản nhiên”. Dưới lời kêu gọi của Vua Hàm Nghi, dân chúng nổi dậy rất đông, nhưng vì rải rác các nơi nên lực lượng không mạnh. Nhà vua đã hai lần xuống dụ Cần Vương trong đó có một lần gửi thư cầu viện cho Tổng đốc Vân Quý của triều Mãn Thanh và rất nhiều chỉ dụ khác tới các quan lại, lãnh tụ của phong trào chống Pháp.
 
Trong suốt thời gian kháng chiến của Vua Hàm Nghi, Vua Đồng Khánh và 3 bà Thái hậu liên tục gửi thư kêu gọi vua trở về nhưng ông khẳng khái từ chối. Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Paul Bert cũng đã định lập Hàm Nghi làm vua 4 tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình nhưng cũng không thành. Nhà vua thường nói mình ưa chết trong rừng hơn là trở về làm vua mà ở trong vòng cương tỏa của người Pháp. 
 
Tại căn cứ địa lãnh đạo phong trào Cần Vương, Vua Hàm Nghi được Tôn Thất Thuyết cử con là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp hộ giá bảo vệ, cùng đề đốc Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân chia nhau phòng thủ và tấn công lực lượng Pháp trong vùng. Tới tháng 9 năm 1888, suất đội Nguyễn Đình Tình phản bội ra đầu thú với Pháp tại đồn Đồng Cá. Nguyễn Đình Tình lại dụ được Trương Quang Ngọc về đầu thú. Sau đó, Nguyễn Đình Tình và Trương Quang Ngọc tình nguyện với Pháp đem quân đi vây bắt Vua Hàm Nghi. 
 
Đêm khuya ngày 26 tháng 9 năm 1888, Vua Hàm Nghi bị bắt khi đang ngủ, Tôn Thất Thiệp bị đâm chết. Khi đó, ông mới 17 tuổi, chống Pháp được 3 năm. Nhà vua đã chỉ thẳng vào mặt Trương Quang Ngọc mà nói rằng: “Mi giết ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây”. Riêng về kho báu khổng lồ mà Vua Hàm Nghi đã mang theo khi rời khỏi kinh thành Huế thì có thông tin cho rằng, vua đã kịp giấu vào một địa điểm bí mật tại Minh Hóa.
 
Hành trình đi tìm kho báu trong vô vọng
 
Tại Hóa Sơn, Minh Hóa đến nay vẫn lưu truyền những câu chuyện về kho báu khổng lồ của Vua Hàm Nghi. Theo đó, trong một trận lũ lớn tháng 8.1956, có cô gái tên Quý đi xúc cá đã phát hiện ra nhiều tấm kim loại màu vàng trên bãi đất bồi bên vực Trẩy, khe Dương Cau, xã Hóa Sơn. Sau đó, cô gái này về báo lại với gia đình và nhiều người trong thôn đã đến xem, cho rằng toàn bộ số kim loại đó là vàng của vua Hàm Nghi. 
 
Thông tin này đã nhanh chóng đến được với chính quyền các cấp và cơ quan chức năng. Lúc đó, xã Hóa Sơn đã chỉ đạo cho lực lượng dân quân, công an bảo vệ rồi thu gom vàng. Tổng cộng số vàng thu được là 240 kg, bỏ đầy 5 cái nong phơi lúa. Đó là những tấm vàng có hình chữ “Đại”. Vàng được gom về tập kết tại sân nhà ông Phát gần đó rồi đem giao nộp cho Nhà nước. Tuy nhiên, trước khi thu gom, có nhiều người dân đã lấy đi một số vàng đem về làm đồ dùng trong nhà như những thứ sắt, thép khác chứ họ không quan tâm đến giá trị của vàng. Nhiều người còn nói, cô gái tên Qúy đã lấy đi một lượng vàng khá lớn rồi đi vào miền Nam sinh sống đến nay vẫn chưa về.
 
Bà Đinh Thị Bình, 78 tuổi ở thôn Đặng Hóa kể lại: “Hồi đó, bên cạnh vực Trẩy có một cây Pằn Nàng rất lớn, nhưng trong thân lại bị rỗng. Sau trận lụt lớn, cây này bị đổ và nước cuốn cây xuống vực sâu. Khi lũ rút đi để lại rất nhiều vàng. Chính tôi đã nhặt được 5 chữ vàng rồi đem giao nộp và được cấp trên thưởng cho một bộ quần áo mới. Còn xã được thưởng ba con lợn với rất nhiều lúa gạo để ăn mừng”. Nhân sự kiện đó, nhiều người cho rằng, có thể vua Hàm Nghi đã cho người giấu vàng trong hốc cây Pằn Nàng đại thụ này.
 
Tuy nhiên, lại có thông tin cho rằng trong suốt 3 tuần lễ sau ngày vua Hàm Nghi ra đi, phần lớn kho báu trong hoàng cung đã lọt vào tay người Pháp. Cuộc thất thoát kho báu của các vua triều Nguyễn kéo dài 2 tháng sau ngày kinh đô Huế bị thất thủ bởi người Pháp vào tháng 7.1885 đã gây tai tiếng hơn cả cuộc cướp phá lâu dài của hoàng đế nhà Thanh ở Bắc Kinh. 
 
Sau này vua Đồng Khánh nhiều lần đòi lại kho báu đã bị người Pháp lấy đi như biên bản ngày 21.3.1888 của Pháp đã ghi: “Trở lại chuyện đã bàn trước đây, hoàng thượng (vua Đồng Khánh) nhắc rằng các vật phẩm quý giá của hoàng gia bị thất thoát sau biến cố ngày 5.7 và chắc chắn hiện giờ đang nằm trên đất Pháp, giá trị nhất là chuỗi kim cương kết lại từ đời vua Gia Long cho đến đời vua Tự Đức, cùng một bảo kiếm nạm ngọc quý truyền lại từ đời vua Gia Long”.
 
Một trong những vật ấn tượng trong kho báu hoàng cung là con vui bằng vàng đúc rất tinh xảo, đã bị 2 người Pháp có trọng trách tranh giành về riêng mình. Để rồi cuối cùng con voi vàng (Kim Tượng) là báu vật truyền đời kia bị chặt ra làm hai chia cho hai đại diện thực dân Pháp mỗi người một nửa. 
 
Theo tài liệu trên, sau ngày vua Hàm Nghi đi đày, hoàng cung còn giữ lại nhiều bảo vật vô giá như những bửu tỷ bằng vàng khối có cái nặng đến 18 kg, ngọc điệp nhà Nguyễn, những chiếc độc bình lớn bằng men lam Huế (bluers de Hue), các tủ chạm cẩn xà cừ, các ché lớn thời Minh và các ché màu lục nhạt (cédalon), các đĩa lớn đường kính 55cm màu hồ thủy đẹp tuyệt vời ...Vẫn còn nhiều lời đồn đại về kho báu bí mật của vua Hàm Nghi, về cả những giếng chôn vàng khiến người ta không khỏi tò mò, quan tâm.
 
Nhiều người đặt câu hỏi, liệu có còn kho báu nào của vua Hàm Nghi nữa không? Câu hỏi này hiện chưa được trả lời chính xác. Điều chúng ta biết được rằng, ông Nguyễn Hồng Công – một người dân ở thành phố Hồ Chí Minh đã bỏ ra hơn 30 năm để tìm kho báu của vua Hàm Nghi cho đến nay vẫn chưa có kết quả và vừa qua đời ngay tại chính cửa hang được cho là kho báu của vua Hàm Nghi. 
 
Hơn nữa, một số các nhà khoa học cũng kiến giải rằng, trong lúc đang bị giặc Pháp truy đuổi ráo riết như thế, vua Hàm Nghi và các quần thần khó có thể mang theo một số tài sản lớn như thế qua một chặng đường đất hiểm trở. Do vậy, kho báu của vua Hàm Nghi có nhiều khả năng không tồn tại.

Theo Hôn nhân & Pháp luật

 

 

Các bài mới
Các bài đã đăng