Trong nghệ thuật thị giác, truyền thống đến từ kho tàng nghệ thuật dân gian, từ các ngành nghề thủ công… nhưng không có sẵn theo kiểu cứ làm là được. Quá trình tìm lại nhọc công, mệt trí bao nhiêu thì nghệ sĩ càng có cơ hội bồi đắp sáng tạo cho riêng mình.
Những thách thức đương đại
Để tạo ra chiếc bình gốm tròn căng, đường kính bằng vòng tay người ôm, với nét vẽ li ti tối giản màu chàm xoay chuyển không dứt quanh thân bình, Triệu Minh Hải phải mất nhiều năm tìm tòi. Bắt đầu làm việc với gốm từ năm 2003, sau một thời gian bỏ ngang, anh lại tiếp tục quay về với chất liệu này. Gốm cho sự thỏa mãn nhu cầu vẽ trên một “bệ đỡ” nghệ thuật vô tận. Đó là bề mặt cong với cấu trúc đặc thù của không gian ba chiều thay vì hai chiều như lụa hay toan. Tuy vậy, theo Triệu Minh Hải, việc tạo tác từ truyền thống không dễ, tiếp cận truyền thống để cho ra giao diện đương đại là hành trình gian nan và đầy những thử - sai.
Ban đầu muốn vẽ màu xanh ôxít côban trên tác phẩm gốm cho màu trắng sứ nhưng việc tạo ra gốm màu trắng sứ khá đắt đỏ và không khả thi với những người làm thủ công, số lượng ít. Anh chuyển sang loại đất có màu nhờ nhờ, phải ủ, nhào để kiểm soát độ ẩm, độ dẻo thì mới tạo được phom dáng ưng ý. Chất đất này lại không hợp với màu men theo ý định ban đầu, vậy là nghệ sĩ tự mày mò tìm sắc độ, chế cho ra màu men như ý. Rồi thời gian nung phải cực kỳ chính xác, cùng nhiệt độ ấy, non một tí thì màu gốm sẽ xám, già một tí thì dáng gốm cong veo như bánh đa… Hay dùng bàn xoay để vuốt, tiện gốm, làm xuôi hay ngược chiều kim đồng hồ cũng là vấn đề.
Còn với Nguyễn Đức Phương, lần đầu tiên “va chạm” với gốm, anh tìm về Phù Lãng, và lập tức bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của các tiểu sành được bà con xếp đầy trên thành tường. Đó là những cái bị hỏng trong quá trình nung, cái non lửa, cái già lửa, cái loang lổ, cái nứt vỡ… Cảm hứng từ đó, Phương tạo ra sắp đặt gồm những tiểu sành xếp chồng lên nhau thành hình vòng cung. Một mặt tiểu sành chạm khắc hình rồng truyền thống và chữ cổ, mặt kia là nét vẽ mới lạ. Ẩn bên trong là câu chuyện tái tạo tiểu sành.
Trong khi làng nghề sản xuất hàng loạt phục vụ thị trường, người thợ chỉ làm theo khuôn đúc sẵn và không muốn nhọc công phân loại đất theo màu sắc cầu kỳ thì nghệ sĩ có nhu cầu ngược lại. Ý đồ của Phương là tạo ra các tiểu sành với sắc độ màu khác nhau, sử dụng men truyền thống. Thế nhưng men truyền thống giờ bị thay bằng men hóa học và thợ làng nghề phải nung với số lượng lớn, lò nung không cao 1m6 như ngày xưa... Thực hành với truyền thống gần như lần lại từ đầu. Chất công nghiệp, biến đổi làng nghề ngáng trở con đường nghệ sĩ tìm lại truyền thống.
Theo Triệu Minh Hải, những vướng mắc rất khó nhìn ra, thậm chí dẫn tới việc tiếp cận truyền thống một cách dễ dãi. “Cứ nghĩ truyền thống đứng im, chỉ cần tới lấy đặt lên tác phẩm là nó vừa duyên dáng cổ xưa vừa được tiếng đương đại thì dễ quá. Phải làm mới thấy truyền thống không đứng yên”.
Tạo ra nhận diện văn hóa mới
Khác hai nghệ sĩ trên, Vũ Đức Trung tìm truyền thống trong sơn mài và chất liệu sơn ta. Tìm về làng nghề sơn mài, Trung nhận ra điểm giao với nghệ nhân ở sự thức thời trong kỹ thuật. Tuy nhiên, các làng nghề bây giờ không còn dùng sơn ta, cũng không phải sơn Nhật, mà chủ yếu là sơn hóa học. Muốn đi đến cùng với chất liệu truyền thống buộc nghệ sĩ dò dẫm từng bước nhỏ.
Chọn cách phức tạp khiến quá trình tạo tác thú vị hơn nhưng thất bại nhiều. Với sơn ta, cùng một lượng nhưng hai lần pha màu có thể cho hai cảm giác màu hoàn toàn khác nhau, sáng pha ra một loại, chiều lại loại khác, thời tiết nóng hay mát cũng cho ra sắc thái khác nhau… Chính sự không kiểm soát đẩy tính ngẫu nhiên lên cao độ, khiến nghệ sĩ hầu như không thể làm ra tác phẩm thứ hai tương tự. “Đã thử rất nhiều chất liệu và cảm thấy sơn mài có những ưu thế không thể tả hết được. Sơn mài còn rất nhiều khả năng có thể tìm thấy ở trong đấy. Thỉnh thoảng có cảm giác hình như tìm được cái gì rồi, đến lúc làm xong lại thấy không phải, cố tìm tiếp…” - Vũ Đức Trung nói.
Những bước đi như vậy tạo ra “truyền thống mới”. Triệu Minh Hải dẫn chứng, truyền thống của các cụ là thạp gốm hoa nâu dù to mấy cũng chỉ trên dưới 3 chục phân, bây giờ muốn làm to hơn, cao hơn thì phải nghiên cứu và tìm ra kỹ thuật khác. Nghĩa là, tạo tác nghệ thuật đương đại sử dụng bóng dáng của truyền thống, tìm giá trị của truyền thống, chấp nhận bỏ đi một số yếu tố không phù hợp để vươn đến một giá trị mới. Nghệ thuật đương đại không trói buộc nghệ sĩ nhất định phải làm theo kỹ thuật hay hình thức nào nhưng khởi sự từ truyền thống, nghệ sĩ cần “nền móng” kiến thức nhất định. Cái khó là di sản truyền thống Việt Nam dày dặn nhưng tản mát khắp nơi, buộc phải đi tìm chứ không có sẵn.
Một mặt ghi nhận công sức của những ai dám đi đến cùng với truyền thống nhưng mặt khác cũng cần nhận thấy cách tiếp cận truyền thống hiện nay mới chỉ chạm tới một phần giá trị. Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng nhận định, nghệ thuật đa phần dừng lại ở sao chép hình dáng chứ chưa khai thác sâu kỹ thuật. Tư duy phát triển truyền thống vẫn còn nhiều khoảng trống. Bởi vậy, nghệ sĩ đương đại khởi sự từ truyền thống nên hướng vào tìm tòi kỹ thuật và thể hiện tinh thần truyền thống. “Những bức tranh tượng, bình gốm, chạm khắc hoa văn... của người xưa qua bao thế kỷ vẫn còn nguyên vẹn, tạo được sự nhận diện bản sắc văn hóa. Nghệ thuật ngày nay cũng cần tạo ra sức bền vững và giá trị nhận diện như thế”.
Theo Thái Minh - ĐBND