Người đọc Việt Nam đã đọc về Tomas Tranströmer và một phần thơ của ông qua các bản dịch từ tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga... Bản dịch trực tiếp từ nguyên bản tiếng Thụy Điển hiện chưa có dù một vài dịch giả đã có thể làm được điều này. Tomas Tranströmer là một trong những nhà thơ hàng đầu trên thế giới ở thế hệ ông. Điều ngạc nhiên là số người Thụy Điển đọc thơ ông còn ít, hoặc chỉ đọc một vài bài trong hơn 20 tập thơ của ông. Sau khi giải thưởng được công bố, toàn bộ các tác phẩm của ông được trưng bày ở hiệu sách, thư viện thành phố và người ta vội vàng mua hết. Người ta cũng dựng kịch chuyển thể từ tập thơ Thiên đường dang dở, diễn tại nhà hát Strindberg. Hãng xuất bản Albert Bonnier tái bản một lượng sách gấp ba lần so với lần in trước với số lượng 140.000 cuốn, chủ yếu là Tuyển tập Thơ và Văn xuôi Tomas Tranströmer từ năm 1954-2004. Lượng xuất bản là một kỷ lục thơ ca của Thụy Điển. Các nhà xuất bản ở 50 nước cũng vào lúc được mùa nhờ giải Nobel này. Tại Hội chợ Sách Quốc tế Frankfurt khai trương giữa tháng 10.2011, người ta quan tâm nhiều đến sách của ông. Tomas Tranströmer có thể làm thay đổi quan niệm rằng văn học Thụy Điển gắn liền với truyện trinh thám - giờ đây nó gắn liền với thi ca. Có lẽ nhờ giải Nobel, một thể loại văn học từng ẩn mình từ trước tới nay của Thụy Điển giờ đã được nổi lên, đó là thơ ca. Tên tuổi ông bắt đầu thịnh hành trong thị trường sách của Anh, Mỹ. Các nhà xuất bản từ Ai Cập đến Trung Quốc đã tìm mua bản quyền. Tomas Tranströmer thuộc số nhà thơ được dịch nhiều nhất trên thế giới, trên 60 ngôn ngữ. Ở châu Âu, duy chỉ tiếng Bồ Đào Nha là chưa dịch thơ ông. Tương lai số lượng sách bán sẽ ngang bằng sách của Herta Muller. Một đất nước có văn hóa đọc, hệ thống thư viện dày đặc, các câu lạc bộ sách trải rộng và có tới 200 nhà xuất bản tư nhân, đại diện của các tổ chức như PEN – A World Association of Writers (Hội Văn sĩ Thế giới) và IBBY (International Board on Books for Young People, Cơ quan Quốc tế về Sách cho Thanh thiếu niên), SFF (Swedish Writers Union, Hiệp hội Văn sĩ Thụy Điển), các học viện văn chương hoạt động mạnh. Hàng năm Hội Chợ sách Quốc tế (International Book Fair) được tổ chức vào cuối tháng 9 tại thành phố cảng Göteborg, thu hút giới văn chương trên khắp địa cầu. Thụy Điển cũng đăng cai các hội nghị có ý nghĩa như Waltic (Writers’ and Literary Translators International Congress, Đại hội Quốc tế các Nhà văn và Dịch giả văn học). Giải Nobel Văn học đầu tiên được trao vào năm 1901, từ đó Thụy Điển đã sáu lần đoạt giải và Tomas Tranströmer là người Thụy Điển thứ tám được nhận giải thưởng, chắc hẳn không phải là một điều lạ lùng. Tomas Tranströmer là nhà thơ thế giới lớn bậc nhất hiện còn sống. Ông và bà vợ Monica Bladh ở trong một căn hộ tại phố Stigberggatan, khu nhiều nghệ sĩ sinh sống ở đảo Södermalm, thủ đô Stockholm. Từ khi bị tai biến mạch máu não, ông mất khả năng nói, mọi thông ngôn đều qua bà Monica và con gái hoặc diễn đạt qua chiếc đàn dương cầm. Tuyển tập đầu tiên 17 dikter (17 bài thơ) ra mắt năm 1954, khi nhà thơ 23 tuổi, ông đã xuất hiện sáng chói trên thi đàn, bởi sự vững vàng trong thể loại, sử dụng điêu luyện các hình tượng ẩn dụ, siêu việt. Giới báo chí bình luận: ”Tomas Tranströmer đã nhảy dù từ trên cao xuống giữa mùa hè Thụy Điển với Preludium (Khúc dạo) trong tuyển tập 17 bài thơ”: Thức dậy là cú nhảy dù từ giấc mơ Tự do khỏi làn gió cuốn chìm xuống Người lữ hành tiến vào vùng xanh của buổi sáng Tomas Tranströmer hiện diện trong thơ ca. Ban đầu ông thường giấu mình dưới tấm mặt nạ của người thứ ba, sau này chân dung bản thân được phản chiếu rõ nét. Thơ ông sinh động, có sức thuyết phục. Ông tìm thấy chiều sâu trong sự đơn giản. Ông viết về những điều lớn lao như cái chết, ký ức, về lịch sử và thiên nhiên. Ngôn ngữ bình dị, pha lẫn huyền thoại, tự nhiên, ẩn dụ đậm sắc, thấp thoáng có màu sắc tôn giáo. Nhưng cũng có một số ý kiến bất thuận: ”Hình ảnh thơ Tomas Transtromer cân bằng một cách quá hoàn hảo, thẳng tắp” là ý kiến của phái thi sĩ nữ giới. Âm điệu từ cuộc sống hàng ngày đã cho phép người đọc lật từng lớp cái huyền bí của ông. Hình tượng trong thơ dẫn chúng ta đi thẳng vào cốt lõi của sự tồn tại nhân sinh, ăn vào trái tim người đọc. Người ta có thể tìm thấy nhiều tác phẩm đầy tính ẩn dụ hay những chùm thơ haiku gần gũi: Dây cáp điện/ căng trong tổ quốc lạnh giá/ phía bắc của tất thảy âm nhạc (Sorgegondolen - Thuyền Bi Thương) Bài thơ dài Biển Baltic, năm 1974, là một tuyệt tác trong sáng tác của Tomas Tranströmer. Nó liên tưởng tới ký ức tuổi thơ và người thân ở đảo Runmarö cùng những chuyến du ngoạn tới Gotland, hòn đảo lớn nhất Thụy Điển, tới những người bạn văn ở đất nước Xô Viết, Riga, và về một nhà soạn nhạc dù đã mất khả năng nói nhưng vẫn tiếp tục phổ nhạc. Bài thơ này hết sức kỳ lạ, mười lăm năm sau Biển Baltic, chính ông cũng dính vào oan nghiệp đó. Năm 1969 ông đã viết một bài thơ mà từ trước đến nay chưa được xuất bản, nhan đề Vänsterhandskonsert (Bản hòa nhạc bằng tay trái): Lao động của bàn tay trái đến từng mảnh chiếu như cầu vồng Bàn tay trái của tôi đang làm gì nơi trái tim nằm dưới? Bàn tay của tôi đang chơi nhạc bay bổng Dù khả năng diễn đạt chỉ bằng một số âm từ ít ỏi nhưng chất thơ vẫn nguyên vẹn, thơ ông chuyển hướng sang thể haiku 17 âm vần. ”Tôn giáo của ông không phải là một thứ chủ nghĩa mà là một hình tượng sống căn bản, một trải nghiệm của thế giới như sự liên kết và tồn tại. Đối với Tomas Tranströmer, mỗi con người là một thế giới vô tận mà người khác có thể hiểu và đi vào” (Magnus Ringgren): Đừng xấu hổ rằng chúng ta là con người, hãy tự hào mới phải Trong chúng ta mở những chu kỳ bất tận Không bao giờ xong phận người, và sẽ mãi là thế (Romanska bagar - Những bán cung La Mã) Tomas Tranströmer sinh ngày 15 tháng 4 năm 1931, mẹ ông là giáo viên, cha ông là nhà báo và nhà biên tập. Từ thuở nhỏ ông say mê khoa học tự nhiên, là đứa trẻ tương đối ”cô đơn nhưng không hề lúng túng”. Cha ông rời bỏ gia đình sớm và chỉ hiện diện vào những ngày Lễ Noel bắt buộc, bà mẹ một mình nuôi con. Ông ấp ủ thú sưu tầm côn trùng và ước mơ trở thành nghệ sĩ dương cầm hay nhà soạn nhạc. Nhưng thơ ca đã chiếm lĩnh tâm hồn ông vào những năm học cuối cấp III, ở trường Sodra Latin, và có nhiều nhà văn tương lai học cùng trường. Ông từng nghiên cứu lịch sử văn học, tôn giáo và tâm lý học. Là công chức nhà nước, những năm thập kỷ 1960 ông là nhà tâm lý giáo dục trẻ vị thành niên phạm tội. Thơ xuất phát từ công việc thường nói lên những cảm xúc xa xôi, vượt ra khỏi thực tại tù túng ”nơi đau khổ phải điều đình với các lề thói làm việc trên mặt trận bàn viết”. Da thịt tiếp xúc với thế giới bên ngoài qua cửa sổ văn phòng, nơi thảm cỏ, gió và mặt trời đang vùng vẫy, những con diều của đám thanh niên đang bay lượn: Mặt trăng của sự nghỉ ngơi lượn quanh hành tinh Công việc với khối lượng và trọng lượng của nó - Người ta muốn vậy Khi chúng tôi trên đường về, mảnh đất béo tai Dưới đất nghe chúng tôi qua những ngọn cỏ (Klanger och spar - Bên lề ngoài công việc - Chuông và vết chân đi) Ngoài tuyển tập 17 bài thơ năm 1954, hai tác phẩm đáng đề cập trong kho tàng thơ của ông là Hemligheter pa vägen (Bí mật trên đường) năm 1958 và Den halvfärdiga himlen (Thiên đường dang dở) năm 1962. Sau khi lâm bệnh, ông vẫn tiếp tục làm thơ, tuyển tập gần nhất là Sorgegondolen (Thuyền bi thương) năm 1996 được in 30.000 bản, tập trung và đậm sắc hơn, một hình thức để đối phó với tình trạng bệnh tật: Tất cả các câu hỏi bắt đầu hát về hiện diện của Chúa (Sorgegondolen - Thuyền bi thương) Và tuyển tập Den Stora Gatan (Điều bí ẩn vĩ đại) năm 2004 gồm những bài thơ ngắn thể haiku là chính, motif ẩn là cái chết, sự yên lặng và bóng tối đột nhiên vỡ tung bởi những niềm hân hoan: Những chiếc lá màu nâu/ có giá như/ cuộn của biển Chết. Tình yêu thiên nhiên và âm nhạc đã để lại dấu ấn lớn trong các sáng tác của ông. Thơ ông về sau đã chuyển sang dạng thơ ngắn (small format). Ông cũng từng dịch thơ ca nước ngoài. Văn nghiệp của ông được công nhận qua nhiều giải thưởng, trong số đó có giải Bellman năm 1966 và August năm 1996. Tháng 4.2011, ông được chính phủ Thụy Điển trao bằng Giáo sư danh dự với lý do “có thành tích sáng tác văn học xuất sắc làm giàu cho ngôn ngữ Thụy Điển và nền văn học thế giới”. Thư ký thường trực của Viện Hàn lâm Thụy Điển, Peter Englund phát biểu: “Tomas Tranströmer đã cho chúng ta một tấm thẻ mới để bước vào hiện thực”. Tomas Tranströmer khiêm nhường nhưng thông minh nổi bật. Ông đã thổi một làn gió ấm đầy thành tín và ngưỡng mộ của chúng ta đối với nhà thơ nói chung. Giải Nobel trao cho ông là một điều hiển nhiên từ nhiều thập niên và nay đã trở thành sự thực. Theo Diệu Hường (Từ Stockholm) - ĐBND |