Tên tuổi ông không chỉ gắn liền với những sự kiện lớn lao trong lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam chống lại ách thống trị của thực dân Pháp, mà còn là sự khởi đầu cho nền hội họa hiện đại Việt Nam. Tên tuổi ông cũng gắn liền với một trong những cuộc tiếp xúc trực tiếp sớm nhất trong lịch sử quan hệ văn hóa Việt - Nga và đó cũng là một trang tuyệt vời trong lịch sử văn hóa nhân loại nói chung.
Có thể nói, từ nửa cuối thế kỷ XVIII các nhà văn Nga đã bắt đầu quan tâm ngày càng nhiều đến các quốc gia phương Đông và nền văn hóa của họ. Chính vì vậy mà suốt thế kỷ XIX nền văn hóa Nga, ở mức độ nào đó, đã trở nên giàu có màu sắc thẩm mỹ hơn nhờ nắm bắt được một cách nghệ thuật thực tại của các nước phương Đông, cùng với nền văn hóa và nghệ thuật của họ, trong đó có Việt Nam, mặc dù sự tiếp xúc với Việt Nam là rất ít. Hơn nữa những thông tin có giá trị về những nước này cũng không thường xuyên. Nhưng các nhà văn Nga vẫn luôn quan tâm đến nỗi đau tinh thần của nhân dân Việt Nam với một tình cảm chân thành.
Tôi đã được xem một tác phẩm của nền văn học Nga, in năm 1903, viết về vấn đề này.
Nguyên mẫu của nhân vật trong tác phẩm này mang tính lịch sử và chân thật, lưu giữ được chân dung thật của nhân vật. Tấm ảnh cũ chụp một người trong trang phục truyền thống của các nho sĩ Việt Nam, đầu đội khăn xếp; khuôn mặt suy tư toát lên vẻ đẹp tinh thần. Đó là một khuôn mặt thông minh, tài ba, có tâm hồn và đầy trách nhiệm. Trong giai đoạn lịch sử đầy cam go, khi đất nước Việt Nam của ông đang nằm dưới ách thống trị của bọn thực dân, năm 1884 ông lên ngôi vua khi mới 13 tuổi, trước ông, chỉ trong một thời gian ngắn, đã có hai ông vua trẻ bị truất quyền. Có tư tưởng phản kháng chính quyền thực dân, ông lập tức trở thành người đứng đầu phong trào khởi nghĩa Cần Vương yêu nước. Bọn thực dân tìm cách sát hại ông. Khi ông trốn vào vùng rừng núi chúng đã truy lùng ông ráo riết như săn đuổi một con thú dữ. Cho tới năm 1888 ông bị bắt do có kẻ phản bội. Chúng đưa ông đi đày ở tận Bắc Phi - Angiêri. Và tại đây, theo nhà Việt Nam học người Nga V.V. Remartruc, mùa xuân năm 1902, trên đường về Nga, nữ văn sĩ Tachiana Lvôpna Sepkina-Kupernhic đã gặp vị vua Việt Nam đang bị lưu đày - Hàm Nghi.
Nữ văn sĩ 28 tuổi này có cuốn du ký hai tập mang tên Những bức thư từ phương xa (1903-1913) viết về những chuyện kỳ lạ ở nước ngoài. Nguyên mẫu của nhân vật trong một truyện ký ở tập I là vua Hàm Nghi. Truyện có nhan đề Hoàng tử Ly Tdong mà không phải Hàm Nghi, người mà trong các thư từ trao đổi, bà và những người quen của bà gọi là Hoàng tử An Nam, hoặc theo kiểu Pháp: Prince d’ Annam (trong phần tiếp theo chúng tôi sẽ trích tác phẩm được xuất bản vào năm 1903 này).
Trong phần đầu tác phẩm của mình, Sepkina-Kupernhic đã phủ lên nhân vật một bức màn cổ tích lãng mạn, đôi chỗ bà phải lược bỏ những chi tiết có thật. Đối với nữ văn sĩ thì chân dung tâm lý của nhân vật là quan trọng hơn; từ đây để bảo vệ họ, tên thật được thay thế bằng những cái tên hư cấu như trong trường hợp Hàm Nghi. Sự thay đổi tên tuổi còn có thể giải thích bằng lý do tránh sự kiểm duyệt. Cụ thể là nỗi e ngại sự giận dữ của nhà cầm quyền Pháp sẽ dẫn đến việc họ ngăn cấm bà đến nước Pháp; rõ ràng là khi ở Angiêri giữa bà và nhà cầm quyền thực dân đã nảy sinh những rắc rối. Tachiana Lvôpna rất thích đến Pari, bà thường xuyên có mặt ở đó: “Pari có lễ misa” - Đó là những lý do có thể đã khiến nữ văn sĩ trong truyện ký của mình đã không gọi tên cụ thể chủ nghĩa thực dân Pháp khi đó mà lại mô tả về một đất nước phương Đông nào đó trong truyện cổ tích. Cách thức này đã tạo ra sắc điệu riêng biệt, phù hợp với việc chấp nhận hình tượng vị khách đến từ đất nước phương Đông xa xôi.
Có thể thấy rõ rằng, khi đối chiếu các sự kiện trong cuộc đời Hàm Nghi và nhân vật trong truyện ký của Tachiana Lvôpna như: nơi tù đày - biệt thự cách không xa thành phố Angiêri, tài năng nghệ sĩ, sự quan tâm đến học thuyết Nho giáo v.v..., và rằng trong tác phẩm của bà còn lưu giữ rất nhiều diện mạo tinh thần và vóc dáng thực sự của Hàm Nghi. Truyện ký đã dựa trên cơ sở tài liệu thuần túy và nhân vật hoàn toàn đồng nhất với Hàm Nghi.
Ở phần đầu của tác phẩm, nữ văn sĩ đã nói rõ ý đồ khi xây dựng nhân vật của mình như một vị hoàng tử trong truyện cổ tích, bằng một bút pháp ước lệ, nhưng thông qua sự ước lệ để làm lộ ra những đặc điểm hiện thực sống động.
Trong thực tế nữ văn sĩ đã kể một câu chuyện cổ tích phương Đông, vẽ nên những bức tranh hoa điền viên đầy những điều kỳ lạ. Bởi vậy bà đã bịa ra những điều cần thiết để giải thích:
“Truyện ngắn của tôi bắt đầu như chuyện cổ tích và thật dễ hiểu: điều đó diễn ra ở một đất nước cổ tích từ phương Đông xa xôi. Ở đó trong những mái nhà tranh sống những người da vàng trầm lặng, thờ Phật trong những ngôi chùa sặc sỡ, ở đó có những con voi đã được thuần hóa mang những chiếc kiệu kín mít, ngồi trên là những người đàn bà nhỏ bé, giống như hình dáng của những chiếc ngà voi.” (Sepkina-Kupernhic, tr.391).
Nữ văn sĩ đã vẽ nên bức tranh với những đặc điểm của đất nước Việt Nam. Đó là một bức tranh lý tưởng và kỳ lạ về một đất nước thuộc vùng văn hóa Viễn Đông. Có thể thấy rằng, bà đã nhiều lần nhấn mạnh đến nét nhỏ nhắn, duyên dáng của những con người từ đất nước “phương Đông xa xôi” - những đặc điểm đập ngay vào mắt người nước ngoài từ cái nhìn đầu tiên khi làm quen với những người Việt Nam có văn hóa.
Vị hoàng tử “được dạy dỗ bởi những bậc hiền triết của đất nước mình”, “theo đạo Nho và tôn thờ những giáo lý của nó”. Không khó khăn gì để có thể đoán ra (Sepkina-Kupernhic hy vọng vào sự tinh ý của bạn đọc) rằng, đất nước, nơi cùng một lúc thờ cả đạo Phật và đạo Nho, và cũng là nơi có những con voi - Đó chính là Việt Nam, đất nước “phương Đông xa xôi”.
Nhân vật truyền thống của truyện cổ tích thần kỳ thường là các hoàng tử, thế tử, mà không phải là vua, càng không phải là những ông vua bị hạ bệ. Theo tinh thần của truyện cổ tích, việc xâm lược của bọn thực dân trên đất nước của hoàng tử đã được kể lại: “Vào một buổi sáng bất hạnh” xuất hiện những người phương Tây cùng với vũ khí sáng lòa và những viên đạn thảm khốc, chúng đem lại sự hủy hoại.” (Sepkina-Kupernhic, tr.392). Tiếp theo, tính cổ tích của truyện bị vi phạm bởi việc kể lại một cách chân xác những sự kiện lịch sử có thực: “Chàng bị bọn thực dân bắt và bị đưa đi đày. Theo sự lựa chọn của những ông chủ mới của đất nước chàng - trên ngai vàng của cha ông chàng đang ngự trị những bóng ma câm lặng, - còn chàng thì bị giữ làm con tin vĩnh viễn, suốt cuộc đời.” (Sepkina-Kupernhic, tr.392). Nếu đó đúng là truyện cổ tích thì có lẽ đây sẽ là một câu chuyện cổ tích thật khủng khiếp! Buộc phải dời khỏi quê hương mình, hoàng tử bị đưa đi đày ở Bắc Phi: “Ở đó là Tổ quốc chàng; còn ở đây là bậc thang để đi đến nấm mồ.” (Sepkina-Kupernhic, tr.396).
Câu chuyện cổ tích của Tachiana Sepkina-Kupernhic đang kết thúc bằng những tình tiết chân thực như vậy. Và nhà văn đã dời xa một cách nhẹ nhàng khỏi những quy phạm về mặt thể loại của cổ tích thần kỳ, dần dần làm biến đổi sắc điệu của toàn bộ truyện ký. Tachiana Lvôpna trở thành nhân vật của chính tác phẩm của mình: bà không chỉ là người kể chuyện mà còn là một nhân vật hành động. Nhân vật không còn mang tính ước lệ cổ tích mà đã trở thành hình tượng văn học đầy sức sống. Xuất hiện hình ảnh chàng hoàng tử hiện thực, không cần đến màu sắc kỳ ảo, được mô tả với mối thiện cảm lớn và những nhân tố lý tưởng hóa: “Dáng dấp nhỏ bé của hoàng tử (chàng xuất hiện giữa chúng tôi, giữa những bạn bè chung) trong bộ trang phục nửa Âu nửa Á, ngay lập tức đã lôi cuốn sự chú ý của tôi. Chiếc khăn xếp màu trắng trùm trên mái tóc đuôi sam, chiếc áo dài màu đen với ống tay áo rộng buông xuôi được lót bằng lụa tơ tằm màu xanh tươi (màu xanh của quê hương chàng); nước da vàng ngăm đen mang sắc màu của chiếc ngà voi lâu năm; còn rất buồn và rất thông minh là đôi mắt đen hơi xếch lên phía thái dương; tay và chân chàng nhỏ nhắn - Tất cả điều đó khiến tôi nghĩ về một bức tượng quý giá, được chạm trổ bằng bàn tay tài hoa của một nghệ sĩ phương Đông” (Sepkina-Kupernhic, tr. 394). Tất nhiên, chiếc khăn xếp màu trắng là màu quốc tang, Hàm Nghi không dùng để che mái tóc đuôi sam, mà che búi tóc truyền thống mà các nhà nho Việt Nam thường để. Nhưng toàn bộ chi tiết của quần áo và vẻ ngoài, rõ ràng, được tái hiện lại từ một người có tài quan sát.
Tới thời gian của cuộc gặp gỡ này, vua Hàm Nghi đã thông thạo tiếng Pháp. Ông không chịu chấp nhận sự coi thường vô lý của người châu Âu. Chính khi đến Angiêri, trong lúc bị cưỡng bức đi đày, thời gian đầu ông đã định sống thu mình lại trong sự biệt lập, chính xác hơn là cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Cách sống này là nguyên nhân không chỉ của thái độ cực đoan của tuổi trẻ mà trước hết là của sự khó chịu với những gì liên quan tới thực dân, tới “bọn Tây”. Chúng ta nhớ tới nhà thơ - nhà yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, khi ông kiên quyết chối từ, thậm chí việc cầm trên tay miếng xà phòng của kẻ thù...
Cùng với điều đó, Hàm Nghi còn giữ lại cho mình nhiều thói quen như khi còn sống trong cung đình Huế. Nữ văn sĩ Nga đã dẫn ra tình tiết sau: bên cạnh hoàng tử luôn có hai người trẻ tuổi từ các gia đình trí thức Việt Nam, họ tự nguyện theo ông trong cảnh tù đày. “Họ đi lại nhẹ nhàng dường như không có tiếng động trên những chiếc đế giày màu trắng; còn khi hoàng tử quay về phía họ hỏi bằng tiếng mẹ đẻ, họ trả lời rì rầm chỉ đủ để nghe, giống như tiếng của những cái đài hoa Trung Quốc chạm nhau và ngân vang trên khay nước.” (Sepkina-Kupernhic, tr. 400). Ở đây, nữ văn sĩ đã ghi nhận cung cách tinh tế, lịch thiệp đáng quý trọng của giới quý tộc Việt Nam trong giao tiếp với nhà vua, mặc dù là họ đang ở tại nơi tù đày của bọn thực dân.
Rõ ràng, lúc đầu vua Hàm Nghi đã chối từ việc học tiếng Pháp, tiếng của “bọn Tây”. Nhưng ông nhanh chóng thay đổi quan điểm của mình. Ông đã thôi cảm thấy thế giới phương Tây là hoàn toàn thù địch và không thể chấp nhận được. Ông quan tâm đến văn hóa châu Âu, say mê âm nhạc, và điều cơ bản nhất - ông hết sức yêu thích hội họa. Hơn nữa, hội họa trở thành niềm ham thích của ông, nuôi dưỡng cuộc đời ông, thành nghề nghiệp của ông.
Dáng dấp lạ lẫm, gợi cảm cùng với sự trang nhã của hoàng tử và sự bí ẩn của chàng đã tạo nên mối thiện cảm lớn lao trong lòng nữ du hành người Nga. Và bà cùng với bạn bè của mình đã trở thành khách mời tại nhà ông, nơi mà bên cạnh những bản thảo và nhạc cụ (cả Đông và Tây), bên cạnh các bản nhạc (mà giữa chúng có cả các tác phẩm của nhà soạn nhạc vĩ đại người Nga Mikhain Ivanôvich Glinka), thì thu hút sự chú ý của khách lại là những bức tranh do chính hoàng tử vẽ, chúng chứng tỏ cho khách thấy tài năng nghệ thuật của ông. ở đó còn có chiếc giá vẽ cùng với bản thảo dang dở. Trong biệt thự của hoàng tử, nữ văn sĩ Nga còn nhìn thấy “những vật quý giá và thiêng liêng như: những tấm lụa quý treo tường, cùng với những câu danh ngôn của Khổng phu tử được dát bằng vàng trên lụa, những nhạc cụ của đất nước chàng, những cuộn bản thảo, mực và bút trên bàn viết, những chiếc chiếu cói trên nền nhà. ở một chỗ khác trong nhà là cây đàn dương cầm, chiếc viôlông, những bản nhạc, giữa chúng tôi tìm thấy Glinka của chúng ta, và giá vẽ cùng với bản thảo dang dở. Trên những chiếc bàn khắp nơi là phác thảo của hoàng tử, tranh của chàng, chúng cho tôi biết rằng trong thân hình nhỏ bé như chiếc ngà voi kia ẩn giấu tâm hồn của một nghệ sĩ lớn.” (Sepkina-Kupernhic, tr.398). Qua nhận xét này của nữ văn sĩ - một người có tầm hiểu biết nghệ thuật sâu rộng, đ• biểu lộ niềm kính trọng lớn lao đối với Hàm Nghi.
Vua Hàm Nghi đã vẽ gì trong những bức tranh đầu tiên của mình? Nữ văn sĩ đã thông báo ngắn gọn điều đó: “Khu vườn của chàng... Những cửa vòm kiểu La Mã ở Tamgađa, cảnh hoàng hôn trên biển... cảnh điêu tàn của Kôxntantina và cánh rừng cọ El-Kantari, mái vòm trắng của nhà mộ Marabi, những trẻ em da đen - tất cả đều sống động, hiện lên trên nền vải vẽ.” (Sepkina-Kupernhic, tr. 398). Rõ ràng, Hàm Nghi đã vẽ mẫu thực tất cả những gì ông có thể quan sát được trực tiếp.
Nữ văn sĩ người Nga đã viết một đoạn cần thiết để lồng vào thiên truyện ký của mình, nói về bi kịch sâu kín của hoàng tử và đất nước thân yêu, cùng với khát vọng về tự do, về nền độc lập trước bọn thực dân của chàng. Có một nhận xét nhỏ, dường như muốn tỏ sự quan tâm tới chàng: “Thật là có lỗi, nếu như không triển l•m những tác phẩm của mình ở Pari, thưa hoàng tử ? - Một phụ nữ xinh đẹp người Pháp có mặt ở đó hỏi một cách nông nổi. Hoàng tử hơi tái mặt, chàng tỏ ra hào hiệp, lịch sự nhưng vẫn trả lời một cách dứt khoát: - Tôi lại cho rằng, sẽ là có lỗi nếu triển l•m những bức tranh của mình ở Pari !” (Sepkina-Kupernhic, tr.399).
Ý thức tự hào và lòng tự trọng về đất nước thân yêu bị xúc phạm được biểu hiện trong câu trả lời tế nhị và giàu ý nghĩa của hoàng tử. “Và ý nghĩa chân chính của câu trả lời này đã thức tỉnh tôi!” - nữ văn sĩ kết luận. Hoàng tử đã có thể cởi mở với nữ văn sĩ hơn là với những người Pháp về những quan điểm chính trị của mình với niềm xúc động khi nhớ về Tổ quốc. “Nhưng rõ ràng rằng, chàng không muốn và không có thói quen nói chuyện với những kẻ xâm lược đất nước mình và cái gì đang rung động trong trái tim chàng, đang muốn tìm kiếm lối thoát, chàng có thể dễ dàng cởi mở với một người sinh ra ở đất nước Nga xa xôi; chàng tin rằng, sự động chạm của bàn tay tôi sẽ không thể làm đau chàng, và lần đầu tiên thật bất ngờ, chàng đã bắt đầu nói với tôi về chính Tổ quốc mình.” (Sepkina-Kupernhic, tr. 402). Nữ văn sĩ đã thấy cần phải nhấn mạnh: “Và cuộc nói chuyện của chúng tôi đ• bắt đầu: đó là cuộc đối thoại giữa hai người khác nhau, hai nền văn minh, hai chủng tộc.” (Sepkina-Kupernhic, tr. 401). Ở nhà văn Nga biểu lộ tư tưởng về sự bất thường của cuộc tọa đàm này, về ý nghĩa to lớn của sự hiểu biết lẫn nhau giữa các chủng tộc, các nền văn minh và các dân tộc. Giữa nữ văn sĩ Nga và Hàm Nghi đã hình thành một tình bạn, một sự tin cậy lẫn nhau. Có thể nói rằng, những miền khác biệt của bầu trời đã gặp gỡ nhau...
Cuộc đàm đạo đầy xúc động của hoàng tử với nữ văn sĩ Nga về Việt Nam - đất nước đang bị bọn thực dân nô dịch, niềm tin và mối thiện cảm của ông đối với bà (cuối cùng vào năm 1902 ông đã viết cho bà) - là những tình tiết quý báu trong lịch sử quan hệ văn hoá Nga - Việt. Hoàng tử còn cho bà biết rằng, ông đang viết bằng tiếng mẹ đẻ một cuốn sách bàn về học thuyết Nho giáo, “chàng không nói với ai về điều đó, nhưng điều đó tạo nên mục đích cuộc đời chàng”. Chàng kể về Kinh đô của mình, “về ngôi báu đang bị kẻ không có quyền được ngồi trên đó chiếm đoạt”, kể từ đó chàng “đã bị tước mất quyền, thậm chí quyền được ngắm nhìn bầu trời thân yêu của mình” (Sepkina-Kupernhic, tr. 402). Như vậy là, vào năm 1902 nữ văn sĩ Nga Tachiana Sepkina-Kupernhic đã đàm đạo ở Angiêri với cựu vương Hàm Nghi về cố đô Huế của Việt Nam.
Vẫn còn có một chi tiết quan trọng: Hàm Nghi không chỉ biết về nước Nga, nghĩ về nó mà còn mơ ước được đến thăm mảnh đất này:
“Sau đó chàng nói:
- Tôi mong muốn được nhìn thấy những bông tuyết và những miền thảo nguyên của đất nước bạn...
- Hãy đến chỗ chúng tôi! - Tôi bật ra lời mà không cần suy nghĩ.
Hoàng tử cúi thấp đầu.
Lát sau chàng ngẩng lên nhìn tôi và mắt chàng đẫm lệ.
- Tôi là một con chim bất hạnh bởi sợi dây đang buộc chặt chân mình. - Chàng khẽ khàng thốt lên cùng với nụ cười thường lệ, nhưng lúc này nụ cười ấy đã trở nên đau đớn.” (Sepkina-Kupernhic, tr. 403).
Sepkina-Kupernhic đã cảm thấy và truyền đạt lại được toàn bộ tấn bi kịch sâu lắng trong lòng Hàm Nghi, những khát vọng cao cả và mối lo âu tới số phận của đất nước Việt Nam thân yêu của ông, nỗi buồn của nhà vua về cố đô Huế, truyền đạt lại cho chúng ta ngày nay mối quan tâm của Người tới nền triết học Nho giáo, tới âm nhạc (phương Đông và phương Tây), kể về tài năng nghệ thuật khác thường của nhà vua và sự quan tâm của Người tới nước Nga xa xôi.
Hàm Nghi không đạt được nguyện vọng là đến thăm nước Nga, không nhìn thấy những bông tuyết Nga. Nhưng tâm nguyện của ông, vào đầu thế kỷ XX - hầu như đã một trăm năm trước chúng ta - mơ ước được đến nước Nga, vẫn không hề bị quên lãng, bởi nữ văn sĩ Nga T.L. Sepkina-Kupernhic đã kể lại điều đó cho tất cả mọi người.
Bà đã thể hiện sự yêu thích thực lòng tài năng hội họa của Hàm Nghi qua những bức tranh đầu tiên của họa sĩ. Cần phải lưu ý bạn đọc rằng, trong thời gian này, nền hội họa hiện đại của Việt Nam còn chưa hình thành, nó mới chỉ thực sự đang nảy sinh. Về những bức tranh được sáng tác trong thời gian này, tôi mới chỉ được biết có một bức. Đó là tác phẩm “Bình thơ” của Lê văn Miến, nó ra đời năm 1898 và được lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội.
Vua Hàm Nghi là một trong những họa sĩ đầu tiên của Việt Nam bắt đầu vẽ theo truyền thống châu Âu - với thể loại tranh sơn dầu, bằng sự tính toán theo phép phối cảnh. Hàm Nghi cần phải được coi là người mở đầu cho nền hội họa mới của Việt Nam. Và điều rõ ràng là ông đã trở thành một họa sĩ chuyên nghiệp.
Tất nhiên, đối với lịch sử hội họa Việt Nam điều lý thú đặc biệt là những câu chuyện được kể về những bức tranh của vua Hàm Nghi, mặc dù đó chỉ là một vài bức từ chúng. Còn việc nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp sáng tạo của ông, rõ ràng đã làm giàu có thêm nền văn hóa Việt Nam.
Nhưng ở đâu có thể còn đang lưu giữ những bức tranh của Hàm Nghi? Điều cần lưu ý thứ nhất là, bởi ông có thời gian sống rất lâu ở Bắc Phi, mất năm 1943 cũng tại đó và được mai táng trong khu vườn biệt thự Gia Long của mình ở ngoại vi trước đây của thành phố El-Biar (ngày nay nằm trong phạm vi của Thủ đô Angiêri - thành phố Angiê), thì việc trước hết là phải tìm kiếm ở chính nơi này. Tiếp theo, không còn nghi ngờ gì nữa, khả năng rất lớn là những bức tranh của Hàm Nghi hiện đang còn ở Pháp. Đó là điều cần lưu ý thứ hai.
(Ảnh; huevatoi.com)
Điều thứ ba, chúng tôi để ý đến một sự kiện đáng lưu ý trong cuộc đời Hàm Nghi từ tài liệu được lưu trữ. Năm 1902 ông đã đến Pari. Mục đích của chuyến đi là để cưới con gái của Laloer - một quan chức lớn của nước Pháp. Chúng tôi sẽ dẫn ra đây bức thư được gửi từ Pari của nữ văn sĩ Nga Maria Vxevôlôđôpna Krextôpxkaia cho bạn gái của bà là M. Theixa đề ngày 19 tháng sáu năm 1902:
“Hoàng tử An Nam đã có mặt được một vài ngày ở Pari, tôi đã gặp chàng và ngay lập tức chàng đã hỏi thăm tin tức của cô gái Tachiana (Sepkina-Kupernhic). Chàng nói: Tôi gần đây không hề nhận được tin tức của Tachiana, và muốn biết khi nào nàng sẽ tới Pari. Thời gian vừa rồi Tachiana có ở Maxcơva không nhỉ, tôi đã gửi thư đến đó, không hiểu nàng có nhận được không?
Chúng tôi tập trung nhóm các bạn trẻ quen biết Hoàng tử An Nam để có mặt trong tiệc cưới của chàng sẽ tổ chức vào ngày 9 tháng Bảy”.
Có đúng thế chăng, bức thư này mang đầy ý nghĩa? Hàm Nghi đã đi từ Angiêri đến Pari và đã gặp một người phụ nữ Nga, và ngay lập tức hỏi han tin tức về người bạn gái yêu quý của mình, nữ văn sĩ Nga Tachiana. Còn nữa, vua Hàm Nghi đã trở thành trung tâm chú ý của những người phụ nữ Nga. Mọi chuyện thật sự đã xảy ra ở Pari, chứ không phải ở Maxcơva hay ở Peterburg. Ngoài ra, từ bức thư chúng ta còn biết rõ rằng: trong đám cưới của cựu vương Việt Nam vào ngày 9 tháng Bảy năm 1902 có mặt một phụ nữ Nga. Có thể ở đó còn có mặt những người Nga khác nữa!
Cũng cần biết rằng, cuộc hôn nhân của Hàm Nghi với con gái của Laloer đã cho ra đời hai người con gái. Cả hai đều là những người thành đạt và sống ở châu Âu. Chắc rằng con cháu họ vẫn còn gìn giữ những bức tranh của họa sĩ Hàm Nghi.
Đương nhiên là người sáng lập nền hội họa hiện đại Việt Nam Hàm Nghi có thể có vị trí vinh dự không chỉ trong lịch sử của cuộc đấu tranh vì tự do chống lại chủ nghĩa thực dân, mà còn cả trong lịch sử nền nghệ thuật Việt Nam. Không đâu ở châu Á, châu Phi và Nam Mỹ, một cựu hoàng lại có được một vai trò tương tự trong lịch sử nền văn hóa của dân tộc mình.
VŨ THANH dịch (từ nguyên bản bản tiếng Nga do chính tác giả gửi cho chúng tôi) (185/07-04)
----------------------------------- * Giáo sư Tiến sĩ văn học, Nhà Việt Nam học người Nga
|