Tạp chí Sông Hương - Số 186 (tháng 8)
Horla
15:26 | 09/09/2009
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
Horla
Bìa cuốn Le Horla - Ảnh: marche.fr

Ngay sau khi bè bạn tụ tập đông đủ, ông nói với họ: "Tôi sẽ cho các ngài thấy trường hợp kỳ quặc và đáng lo ngại nhất mà tôi từng gặp. Nhưng tôi cũng chẳng có gì để nói về bệnh nhân của tôi. Chính anh ta sẽ tự kể". Nói rồi bác sĩ bấm chuông. Gia nhân dẫn vào một người đàn ông. Anh ta gầy khủng kiếp, gầy như xác chết, gầy như những người điên bị dòng suy nghĩ dằn vặt làm cho mòn mỏi, bởi những suy nghĩ bệnh hoạn cắn xé thân thể người ta còn hơn cả bệnh sốt hay lao phổi.

Sau khi chào hỏi và ngồi xuống, anh ta nói: Thưa các ngài, tôi biết tại sao người ta tập hợp các ngài ở đây và tôi sẵn sàng kể cho các ngài nghe câu chuyện của mình, như ông bạn tôi, bác sĩ Marrande, đã yêu cầu. Suốt một thời gian dài ông ta tin rằng tôi bị điên. Hôm nay thì ông ta nghi ngờ. Nhưng chỉ lát nữa tất cả các ngài sẽ thấy rằng đầu óc tôi cũng lành mạnh, tỉnh táo và sáng suốt chẳng kém gì đầu óc các ngài - thật là bất hạnh cho tôi, cho các ngài và cho toàn nhân loại.

Nhưng tôi muốn bắt đầu bằng chính các sự kiện, những sự kiện hết sức đơn giản. Thế này:

Tôi bốn mươi hai tuổi, không có vợ. Gia sản của tôi đủ cho một cuộc sống phong lưu. Khu nhà tôi nằm trên bờ sông Seine, ở Biessard, gần Rouen. Tôi thích săn bắn và câu cá. Đằng sau, phía trên những mỏm đá lớn trùm lấp cả ngôi nhà, là rừng Roumare, một trong những khu rừng đẹp nhất nước Pháp, còn trước mặt tôi là một trong những con sông đẹp nhất thế giới.

Ngôi nhà của tôi rất rộng, bên ngoài sơn trắng, xinh xắn, cổ kính, nằm giữa một khu vườn lớn, cây cối tuyệt đẹp, leo đến tận bìa rừng, chờm lên những mỏm đá lùn mà tôi vừa nói.

Gia nhân của tôi bao gồm, nói đúng hơn là lúc ấy bao gồm một người đánh xe ngựa, một người làm vườn, một người hầu phòng, một bà nấu bếp và một chị thợ giặt, người kiêm luôn cả những việc nặng trong nhà. Tất cả những người này đều đã sống với tôi từ mười đến mười sáu năm, hiểu rõ tôi, hiểu rõ khu nhà tôi cùng xứ sở và tất cả những gì gần gũi với cuộc đời tôi. Đó là những đầy tớ hiền lành và tốt bụng. Điều này quan trọng với những gì tôi sắp kể.

Tôi xin nói thêm rằng trên dòng sông Seine chảy dọc vườn nhà tôi tàu bè có thể đi lại tới tận Rouen, điều đó chắc chắn các ngài đều biết rõ. Ngày ngày tôi vẫn thường trông thấy những con tàu lớn đến từ đủ mọi miền trên thế giới, chạy dọc sông, cả tàu buồm lẫn tàu hơi nước.

Thế rồi, khoảng một năm trước, tức là vào mùa thu năm ngoái, tôi bỗng nhiên mắc một chứng bệnh rất kì quặc, không sao giải thích nổi. Thoạt đầu đó là một dạng bất ổn thần kinh khiến tôi không sao chợp mắt được trong nhiều đêm liền. Trạng thái hưng phấn quá độ, đến mức chỉ cần một tiếng động nhỏ cũng đủ làm cho tôi rùng mình. Tôi trở nên cáu cẳn. Tôi hay có những cơn giận dữ vô cớ bất thình lình. Tôi mời một ông thầy thuốc đến, ông ta kê đơn, khuyên tôi dùng bromure de potassium và tắm.

Tôi nghe theo, uống bromure và tắm ngày hai lần vào buổi sáng và buổi tối. Đúng là sau đó ít lâu tôi lại bắt đầu ngủ được, nhưng đó là những giấc ngủ còn khủng khiếp hơn là mất ngủ. Cứ hễ nằm xuống, nhắm mắt lại là tôi thấy mình tan biến đi. Vâng, tôi rơi vào hư vô, vào một sự hư vô tuyệt đối, một cái chết của toàn bộ bản thể mà từ đó tôi bị kéo ra đột ngột và kinh rợn bởi cảm giác khủng khiếp rằng có một vật đè nặng lên ngực tôi, rằng có một cái miệng áp sát vào miệng tôi mà hút kiệt sinh lực tôi. Ôi, những cơn choáng váng ấy! Tôi chưa từng biết một cái gì khủng khiếp hơn.

Các ngài hãy tưởng tượng một người đàn ông đang ngủ, người ta giết hắn, rồi hắn tỉnh dậy với con dao trong cổ họng, hắn thở khò khè và bê bết máu, hắn không còn thở được nữa, hắn sắp chết mà chẳng hiểu chuyện gì sắp xảy ra - thế đấy!

Tôi ngày càng gầy rộc đi một cách đáng sợ. Và đột nhiên tôi nhận thấy người đánh xe ngưạ, vốn rất to béo, cũng bắt đầu gầy rộc đi như tôi.

Cuối cùng tôi hỏi anh ta:

- Có chuyện gì thế, Jean? Anh bị ốm rồi.

Anh ta trả lời:

- Tôi tin rằng tôi bị mắc đúng căn bệnh của ngài. Đêm không yên thì ngày cũng hỏng.

Tôi nghĩ có lẽ trong nhà có gió độc do ở gần sông, vì thế, mặc dù đang ở mùa săn, đã định bỏ đi đâu đó khoảng hai ba tháng. Tình cờ tôi quan sát thấy một chuyện nhỏ rất kỳ lạ. Nó dẫn tôi đến một loạt những phát hiện quái dị, khó tin và đáng sợ khiến tôi quyết định ở lại.

Một buổi tối, vì khát, tôi uống nửa cốc nước và để ý rằng bình nước đặt trên tủ commode đối diện với giường nằm vẫn còn đầy đến tận chiếc nút pha lê.

Nửa đêm tôi choàng thức dậy, vẫn theo cái cách đáng sợ mà tôi vừa kể. Trong nỗi kinh hoàng, tôi châm nến, và, khi lại định uống nước, tôi ngây người nhận thấy bình nước đã rỗng không. Tôi không dám tin vào mắt mình nữa. Hoặc là có ai đó đã vào phòng tôi, hoặc là tôi mắc bệnh mộng du.

Tối hôm sau, quyết định thử lại một lần nữa, tôi khoá trái cửa lại để tin chắc rằng không ai có thể chui vào phòng. Tôi thiếp đi rồi lại choàng tỉnh dậy giữa đêm như thường lệ. Người ta đã uống sạch số nước mà tôi còn trông thấy hai giờ đồng hồ trước đó.

Ai đã uống chỗ nước ấy? Chính là tôi, chứ còn ai vào đây nữa. Thế nhưng tôi lại tin tưởng chắc chắn, tuyệt đối chắc chắn, rằng tôi đã không hề nhúc nhích trong giấc ngủ mê mệt và đau khổ mình.

Thế là tôi nảy ra một kế để tự thuyết phục rằng mình đã không hề làm một hành động nào vô thức như vậy. Một buổi tối, tôi đặt bên cạnh bình nước một chai vieux bordeaux, một tách sữa mà tôi ghét cay ghét đắng, và mấy chiếc bánh ga-tô sô-cô-la mà tôi rất thích.

Rượu vang và bánh ga-tô còn nguyên xi. Sữa và nước biến mất.

Cứ thế, mỗi ngày một lần tôi thay đổi đồ ăn và thức uống. Người ta không bao giờ đụng đến những thứ đặc, rắn, còn với các chất lỏng thì người ta chỉ uống sữa tươi và trước hết là nước.

Những nỗi ngờ vực dai dẳng vẫn không rời tâm trí tôi. Phải chăng tôi đã dậy rồi uống cả những thứ mình ghét mà không tự biết, bởi trong lúc mộng du các giác quan đờ đẫn có thể đã thay đổi, đã mất đi cảm giác ghê sợ thường ngày và có một khẩu vị hoàn toàn khác.

Tôi lại dùng một mẹo khác để chống lại chính mình. Tôi lấy những băng vải mousseline phủ kín những đồ vật nhất thiết phải chạm vào, sau đó còn trùm lên một chiếc khăn bằng vải phin lanh.

Sau đó, khi lên giường ngủ, tôi lấy than chì bôi đầy lên hai tay, môi và ria mép.

Lúc tỉnh dậy, mọi thứ đều không hề có dấu vết, mặc dù chắc chắn đã có ai đó chạm vào, bởi vì chiếc khăn không còn ở vị trí cũ. Và, thêm nữa, người ta đã uống nước và sữa. Trong khi đó cửa ra vào được khoá chắc chắn, các cửa sổ con cũng được đóng cẩn thận, không một ai có thể lọt vào nhà.

Thế là tôi tự đặt cho mình câu hỏi đáng sợ này: Vậy cái kẻ đêm nào cũng lẻn vào phòng tôi ấy, hắn là ai?

Thưa các ngài tôi cảm thấy mình đã kể quá nhanh. Các ngài cười, chắc chắn là các ngài đã nghĩ: "Một thằng điên". Giá như tôi có thể mô tả cho các ngài nghe về cảm xúc của một kẻ tự nhốt mình trong phòng, đầu óc hoàn toàn lành mạnh, đang nhìn qua lớp thủy tinh của chiếc bình, một ít nước đã biến mất khi anh ta ngủ. Giá như tôi có thể làm cho các ngài hiểu được nỗi khổ sở dày vò mỗi sáng mỗi chiều, hiểu cái giấc ngủ không sao cưỡng được ấy và cả những lần thức giấc còn khủng khiếp hơn nhiều.

Nhưng tôi xin kể tiếp.

Đột nhiên, mọi phép màu ngừng lại. Người ta không đụng chạm đến vật gì trong phòng tôi nữa. Chấm hết. Sức khoẻ của tôi thậm chí khá lên. Tôi đã cảm thấy vui vẻ trở lại thì phát hiện ra rằng một trong số láng giềng của tôi, ông Legite, đang ở trong đúng tình trạng của tôi trước đó. Một lần nữa tôi lại tin rằng trong nhà có gió độc. Người đánh xe ngựa của tôi thì đã bỏ đi trước đó một tháng, ốm nặng.

Mùa hè đã qua, mùa đông bắt đầu. Một buổi sáng, khi đi dạo cạnh bồn hồng, tôi trông thấy, thấy rất rõ, ở ngay bên cạnh, cuống của một trong những bông hồng đẹp nhất tự lìa ra như bị ngắt bởi một bàn tay vô hình nào đó. Sau đó bông hoa vẽ một vòng cung tựa hồ có một cánh tay nâng nó lên môi. Và rồi nó dừng lại giữa không khí trong suốt, lơ lửng một mình, bất động, ghê rợn, chỉ cách tôi có mấy bước chân.

Bị choáng ngợp bởi một cơn điên dại đáng sợ, tôi lao người về phía bông hoa để chụp lấy. Nhưng tôi đã chẳng tìm thấy gì. Bông hoa đã biến mất. Lúc ấy tôi giận mình đến phát điên lên. Một người có lí trí và nghiêm túc không thể nào lại được phép có những ảo giác như vậy được!

Nhưng liệu có đúng đó là ảo giác thật không? Tôi thử tìm cái cuống hoa. Và tôi tìm thấy nó ngay trên một cành hồng, vết cắt còn mới nguyên, nằm giữa hai bông hồng khác vẫn còn lại. Thế mà trước đó là ba bông, tôi đã nhìn rõ ràng như vậy.

Lúc trở về phòng, tâm trí tôi hoàn toàn bị đảo lộn. Thưa các ngài, xin các ngài hãy lắng nghe, tôi bây giờ hoàn toàn bình tĩnh. Tôi chưa bao giờ tin vào những chuyện siêu nhiên, ngay cả bây giờ tôi cũng không tin. Nhưng từ thời điểm đó tôi tin chắc, chắc như đinh đóng cột, rằng quanh quẩn bên tôi có một kẻ vô hình, kẻ đã đến ám tôi, sau đó bỏ đi và rồi quay lại.

Chỉ ít lâu sau tôi đã có bằng chứng về điều đó.

Trước hết, giữa đám gia nhân của tôi ngày nào cũng nổ ra những cuộc cãi lộn dữ dội vì hàng ngàn nguyên nhân có vẻ như vớ vẩn nhưng đối với tôi từ nay trở đi lại đầy ý nghĩa.

Một chiếc cốc, một chiếc cốc Venise tuyệt đẹp cất trong tủ bát đĩa ở phòng ăn tự dưng mà vỡ, giữa thanh thiên bạch nhật.

Người hầu phòng kết tội bà nấu bếp, bà nấu bếp đổ cho chị thợ giặt, chị thợ giặt lại đổ cho ai đó tôi không biết nữa.

Các cửa ra vào tối đóng sáng mở. Đêm nào cũng có kẻ ăn cắp sữa trong gian bếp phụ. Hừ!

Hắn là ai? Bản chất là gì? Một sự tò mò căng thẳng, hoà trộn sợ hãi và giận dữ, khiến tôi suốt ngày đêm ở trạng thái cực kỳ hoảng loạn.

Nhưng một lần nữa ngôi nhà lại trở lại yên ắng. Một lần nữa tôi lại tin vào những giấc mơ, thì xảy ra chuyện sâu đây:

Đó là ngày 20 tháng bảy, lúc chín giờ tối. Trời rất nóng nên tôi mở toang cửa sổ. Ngọn đèn trên bàn toả sáng tập thơ của Musset đang mở ở bài Đêm tháng năm. Tôi thì nằm dài trên chiếc ghế bành lớn và thiu thiu ngủ.

Ngủ được chừng bốn mươi phút, tôi bỗng bị đánh thức bởi một cảm xúc hỗn độn và kì lạ chẳng biết ra làm sao nữa. Tôi lại mở mắt ra nhưng không hề cựa quậy. Thoạt đầu tôi chẳng nhìn thấy gì, nhưng sau đó đột nhiên tôi cảm thấy rằng cuốn sách vừa mới tự nó lật sang trang. Không hề có một tí gió nào lọt vào cửa sổ. Tôi kinh ngạc. Và tôi chờ. Khoảng bốn phút trôi qua, tôi thấy, tôi thấy, vâng, thưa các ngài, tôi thấy bằng chính mắt mình, một trang nữa lại được nâng lên rồi lại lật sang trang, hệt như có một ngón tay giở nó. Chiếc ghế của tôi có vẻ vẫn trống không, nhưng tôi hiểu rằng hắn đang ở đó, chính hắn! Bằng một cú nhảy vọt cắt ngang căn phòng, tôi lao tới, hòng vồ lấy, hòng giữ chặt lấy hắn, nếu như có thể làm điều đó... Nhưng tôi chưa kịp với tới chiếc ghế thì nó đã đổ kềnh, như thể có người vừa bỏ chạy qua trước mặt tôi. Cây đèn cũng bị đổ và tắt ngấm, chiếc cốc vỡ tan. Cánh cửa sổ đập mạnh vào chốt hãm - nó bị xô đột ngột như thể kẻ gian vừa vịn vào trong lúc chạy thoát thân... Ôi!...

Tôi nhảy bổ tới, rung chuông gọi. Người hầu phòng xuất hiện, tôi nói:

- Tôi làm đảo lộn hết cả rồi, làm vỡ hết cả rồi. Đem cho tôi cây đèn.

Suốt đêm hôm ấy tôi không hề ngủ nữa. Hoá ra tôi vẫn là đồ chơi của ảo giác! Tỉnh dậy, tất cả các giác quan đều rối loạn. Phải chăng chính tôi đã xô đổ chiếc ghế và cây đèn trong lúc cuống cuồng như một thằng điên?

Không, không phải tôi! Tôi biết rõ như vậy, không cần phải nghi ngờ mảy may nào cả. Nhưng tôi lại không dám tin.

Các ngài đợi cho một chút. Cái thực thể ấy! Tôi biết gọi nó thế nào đây? Kẻ vô hình? Không gọi thế chưa đủ. Tôi đặt cho nó cái tên là Horla. Tại sao? Tôi không biết nữa. Thế đấy, Horla gần như lúc nào cũng kè kè bên tôi. Suốt ngày đêm tôi cảm thấy, tôi tin chắc vào sự tồn tại của người láng giềng không thể nắm bắt được ấy. Tôi cũng tin chắc rằng hắn đang xâm chiếm dần dần sự sống trong tôi, từng giờ, từng phút.

Vì không nhìn thấy hắn, tôi tức điên lên. Tôi châm tất cả đèn nến trong nhà, làm như thể trong ánh sáng ấy tôi có thể phát hiện ra hắn.

Cuối cùng tôi đã nhìn thấy hắn.

Các ngài không tin đâu. Nhưng tôi quả thực đã nhìn thấy hắn.

Tôi ngồi trước một quyển sách nào đó, không đọc mà rình. Mọi giác quan đều căng lên tột độ, tôi rình hắn và cảm thấy hắn đang lảng vảng ngay bên cạnh. Hắn đó, chắc chắn là như thế. Nhưng ở đâu? Hắn đang làm gì? Làm sao chộp được hắn?

Trước mặt tôi là giường ngủ, một chiếc giường gỗ sồi kiểu cũ. Bên phải là lò sưởi. Bên trái là cửa ra vào mà tôi đã đóng cẩn thận. Sau tôi là chiếc tủ gương rất lớn mà hàng ngày tôi vẫn dùng lúc cạo râu và thay quần áo. Tôi có thói quen nhìn mình từ đầu đến chân mỗi khi đi ngang qua đó.

Vậy đó, tôi giả vờ đọc sách để đánh lừa hắn, bởi vì chính hắn cũng đang rình tôi. Đột ngột tôi cảm thấy, tôi tin chắc, rằng từ phía trên vai tôi hắn cũng đang đọc. Hắn đó, sát bên tai tôi.

Tôi chồm dậy, quay phắt người lại, nhanh đến nỗi suýt ngã bổ chửng. Và thế là... tôi đã trông thấy, tất cả rõ như ban ngày... Tôi không thấy có ảnh mình trong gương! Mặt gương trống không, trong veo và tràn đầy ánh sáng. Không có ảnh tôi trong đó... mà tôi thì đứng ngay phía trước... Tôi chỉ thấy một tấm kính lớn, trong suốt từ trên xuống dưới! Tôi nhìn nó với cặp mắt kinh hoàng. Tôi không dám tiến lên phía trước, cảm thấy rất rõ rằng hắn, chính hắn, đang đứng giữa tôi và chiếc gương, rằng hắn sẽ lại thoát khỏi tay tôi, nhưng chính thân thể không nhìn thấy được của hắn đã hấp thụ mất hình phản chiếu của tôi.

Tôi đã hoảng sợ biết chừng nào! Nhưng rồi đột nhiên tôi lại bắt đầu nhìn thấy mình trong đám sương mù dưới đáy gương, một đám sương mù giống như sau một làn nước. Và tôi có cảm giác rằng làn nước ấy chuyển động từ trái sang phải, chầm chậm, từng giây một, còn hình ảnh tôi trong gương thì hiện rõ dần lên. Tất cả diễn ra như khi nhật thực kết thúc. Cái vừa che khuất tôi đó không có hình thù rõ nét mà là một thứ mờ mờ mỗi lúc một sáng lên.

Cuối cùng tôi đã có thể phân biệt hình ảnh mình trong gương hoàn toàn rõ nét như thường ngày.

Vậy là tôi đã nhìn thấy hắn. Nỗi kinh sợ còn đọng lại trong tôi, khiến tôi run rẩy.

Ngày hôm sau tôi đến đây và yêu cầu được bảo vệ.

Bây giờ, thưa các ngài, tôi xin kết luận.

Bác sĩ Marrande, sau một thời gian dài nghi hoặc, đã quyết định thân hành đến vùng quê tôi.

Ba người hàng xóm của tôi, vào thời điểm này, đang ở trong tình trạng của tôi hồi nọ. Đúng vậy chứ?

Ông bác sĩ đáp:

- Đúng thế!

- Ngài khuyên họ đặt sữa và nước trong phòng để thử xem các chất lỏng ấy có biến mất không. Họ đã làm theo. Những chất lỏng ấy đã biến mất, hệt như ở nhà tôi, có đúng vậy không?

Ông thầy thuốc đáp vẻ nghiêm túc và trịnh trọng:

- Chúng đã biến mất.

Như vậy, thưa các ngài, một Thực thể, một Thực thể mới đã xuất hiện và không nghi ngờ gì nữa, sẽ nhanh chóng sinh sôi, giống như loài người chúng ta đã sinh sôi, trên trái đất!

Vâng! Các ngài cười! Tại sao? Vì Thực thể ấy không nhìn thấy được. Nhưng thưa các ngài, con mắt người là một cơ quan thô sơ đến mức nó chỉ có thể phân biệt được những gì tối cần thiết cho sự tồn tại của chúng ta. Bé quá nó chịu, lớn quá nó chịu, xa quá nó cũng chịu. Nó không nhìn thấy hàng tỉ sinh vật li ti sống trong giọt nước. Nó không nhìn thấy những dân cư, cây cối và đất đai trên những vì sao. Nó không nhìn thấy cả những gì trong suốt.

Hãy đặt trước mặt một tấm kính trong suốt tuyệt đối, nó sẽ không phát hiện nổi và chúng ta sẽ húc đầu vào đó giống như một con chim bị nhốt trong phòng lao đầu vào cửa kính. Cũng như thế, nó không nhìn thấy những vật thể rắn trong suốt mặc dù những vật thể ấy vẫn đang tồn tại. Nó không nhìn thấy không khí mà chúng ta hít thở, không nhìn thấy gió bão, sức mạnh ghê gớm nhất của thiên nhiên, có thể hất ngã người, quật đổ nhà cửa, nhổ bật rễ cây cối, dâng nước biển lên cao như trái núi làm sụp đổ cả những vách núi đá.

Thế thì có gì là đáng ngạc nhiên khi mắt người không nhìn thấy một loại vật thể mới, loại vật thể mà rõ ràng chỉ thiếu đặc tính phản quang.

Các ngài có nhìn thấy điện không? Thế mà nó vẫn cứ tồn tại!

Cái thực thể mà tôi gọi là Horla ấy cũng thế, nó cũng đang tồn tại.

Nó là ai? Thưa các ngài, đó chính là kẻ mà trái đất đang chờ đợi, kẻ sẽ kế tiếp con người! Đó là kẻ sẽ đến để chiếm ngôi của chúng ta, thuần hoá chúng ta, bắt chúng ta làm nô lệ, và có thể sẽ ăn thịt chúng ta như chúng ta ăn thịt bò thịt lợn.

Từ nhiều thế kỷ nay, người ta đã xua đuổi, đã sợ hãi, đã báo trước sự xuất hiện của nó! Cha ông ta luôn luôn bị nỗi sợ đối với kẻ Vô hình ám ảnh.

Nó đã đến.

Mọi huyền thoại về các nàng tiên, về những vị thần giữ của, về những kẻ hung ác và bí ẩn bay liệng trong không gian, thực chất là nói về những kẻ Vô hình qua linh cảm của loài người lo âu và bắt đầu run sợ.

Và thưa các ngài, tất cả những cái mà chính các ngài đang làm từ vài năm nay, những cái mà các ngài gọi là thôi miên, là ám thị, chẳng qua chỉ là sự thông báo và tiên đoán về kẻ Vô hình mà thôi!

Tôi xin thưa với các ngài rằng nó đã đến. Cũng như những con người đầu tiên, nó hãy còn đang chập chững thăm dò, vẫn còn chưa ý thức được khả năng và sức mạnh của mình. Nhưng nó sẽ ý thức được một cách nhanh chóng, cực kỳ nhanh chóng.

Còn đây, thưa các ngài, để kết thúc, mẩu tin trên một tờ báo từ Rio De Janeiro mà tôi tình cờ vớ được. Tôi xin đọc: "Thời gian gần đây tại tỉnh San Paulo dường như có một loại dịch điên. Dân cư nhiều làng phải bỏ đất đai nhà cửa để thoát thân. Họ khẳng định đã bị loài ma cà rồng vô hình săn đuổi để ăn thịt. Loài ma cà rồng này hút hơi thở của họ trong khi họ ngủ. Chúng chỉ uống nước và đôi khi uống sữa!"

Tôi xin nói thêm: Vài ngày trước trận ốm đầu tiên đã khiến tôi suýt chết, tôi nhớ rõ là đã trông thấy một chiếc tàu ba buồm lớn với cái cờ hiệu Brésil phấp phới tung bay... Tôi đã nói với các ngài rằng nhà tôi nằm ngay bên bờ nước... trắng xoá... Không nghi ngờ gì nữa, kẻ Vô hình đã nấp trên chiếc tàu đó...

Thưa các ngài, tôi chẳng còn gì để nói thêm nữa.

Bác sĩ Marrande đứng dậy và lẩm bẩm:

- Tôi cũng vậy. Tôi không biết rằng người đàn ông này bị điên hay cả hai chúng tôi đều điên... hay là... hay là kẻ kế tục chúng ta đã đến thật rồi...

NGÔ TỰ LẬP dịch
(186/08-04)

 



Các bài mới
Các bài đã đăng
Giặc I-Meo (03/09/2009)