Nếu quả thực tôi là “đứa em gái của thằng bạn” thì có lẽ tôi sẽ một tay bụm miệng cười - vì nghe nói hắn “lanh chanh” (thơ Kiêm Thêm) - còn tay kia thì ngoáy bút - vì nghe nói “hắn học giỏi”… Nhưng tôi với tư cách một người đọc thơ thường tình, bỗng dưng bị cuốn hút trong từ trường thơ Kiêm Thêm, mà cũng vì “hắn” nên mới liều mình viết, khó khăn mà viết, dù lần đầu tôi được đọc thơ Kiêm Thêm, theo lời yêu cầu của chính nhà thơ mà Nguyên Sa đã có lần gọi anh là “thi sĩ xứ Huế”:
“Hắn có đủ tứ chi đầu mình và tay chân mắt môi và tóc cùng trí tuệ tuyệt vời hắn nhận giải thưởng hạng nhất về đủ thứ
Ở Huế thường có những thằng bạn với đứa em gái như thế Lanh chanh nhưng đẹp và học giỏi Lạ thay hắn có quyền năng như Thượng đế Sai bảo như thiên lôi Bọn con trai thường thua luôn (Thơ Kiêm Thêm)
Ngôn ngữ “kẻ cả”, “đàn anh”, “ông trời” giọng Huế, lối Huế và cách Huế như rứa hầu như chế ngự toàn thể tập “Hải đường say nắng” mà tác giả vừa hình thành trong một thời gian rất ngắn (cuối đông 2008 đến tháng hai 2009), viết một mạch, một hơi mấy trăm bài thơ và không khéo e sẽ viết hàng nghìn…
Có lẽ không ai “nghịch” hơn Kiêm Thêm khi “làm thơ” về một đề tài không thơ một chút nào với nhiều tựa đề trúc trắc, chẳng hạn “Quyền năng của đứa em gái thằng bạn”, nó cắt ngang mọi chuyện mơ mộng về một gương mặt lãng mạn trong thơ giữa trăm nghìn chuyện mưa nắng Huế mà thoạt tiên bốn chữ “Hải đường say nắng” gợi nên.
Đã có “Đây thôn Vỹ Dạ” với “mặt chữ điền” bí ẩn “lá trúc che ngang” cùng “gió theo lối gió mây đường mây” đưa người đọc băn khoăn tìm kiếm một thứ nhân diện nhìn không ra. Thi tứ vô cùng thoát ra từ nét “mặt chữ điền” thay khuôn mặt trái xoan ước lệ sáo cũ quả bất ngờ.
Kiêm Thêm bất ngờ hơn với một hình ảnh đời thường, thường như cơm bữa - Huế với vô số bạn trai có vô số đứa em gái lau chau. Trong đó lại có vô số người bạn của anh thường là kẻ trong cuộc “đố lá” dò la vườn Thúy. Chuyện đời xưa gói nhiều giấc “mộng dưới hoa” xôn xao quan quan thư cưu, yểu điệu thục nữ một thời Huế với trăm ngàn vu vơ.
Đời nay, ở xứ Mỹ, Los Angeles, Kiêm Thêm điển hình hoá mọi vu vơ thành… một con nộm, một týp, một thể loại người nộm với “đủ tứ chi đầu mình và tay chân... mắt môi và tóc...”.
Nếu đọc kỹ và nếu ai không biết thì sẽ gạch sổ hai câu này cho rằng tác giả viết dư đến lẩm cà lẩm cẩm. Ai đời đã “tứ chi” rồi mà còn “đầu mình và tay chân” lại còn “mắt môi và tóc”, cái con nộm be bé ấy hoá ra có 5 tay 5 chân 4 mắt 2 mình... chi chi đó!!!
Tôi cho người ấy chưa từng biết Huế… bằng Kiêm Thêm với lối nói chữ dài ra, thưỡn ra, vừa “làm đày” yêu bánh nậm, vừa đài các thông thạo sấm trạng Trình, mới nghe thì quái “dị” nhưng nghe lại thì “ngồ ngộ” làm răng! Chỉ có Huế mới vừa “tứ chi” liền theo với “tay chân”, mới “ nhận giải thưởng” mà “VỀ ĐỦ THỨ”. Đủ thứ là thứ chi rứa? Theo thường lối ấy chỉ có trong cách “noái chuyện” chứ không trong thi ca.
Mà chưa ai liều lĩnh tỉnh bơ như Kiêm Thêm khi làm thơ với thứ ngôn ngữ tôi gọi là “trúc trắc” hầu như chế ngự toàn tập thơ.
Trúc trắc ngược lối với thơ nếu không nói là phá thơ, có nghĩa khổ độc, chõi âm điệu.
Ấy thế mà Kiêm Thêm đã tạo nên thơ nơi chính khúc mắc ấy. Cái khúc mắc như khởi đầu của thơ, như một nỗi giật mình chuyền sang người đọc. Cái giật mình khi bắt gặp một hình ảnh đời thường quá quen để là đối tượng của thơ đến nỗi thốt lên “Rứa mà cũng thơ à?”.
Ấy thế mà thơ!
Có nghĩa không nên dừng lại bên bờ một con chữ nào để bắt lý, ngay cả “hắn”, “đứa em gái thằng bạn”. Đừng hỏi “hắn là ai”. Cũng khoan đừng vội bắt bíu cả “tứ chi đầu mình tay chân” mà quả quyết hắn bằng xương bằng thịt 100%. Bởi vì liền sau đó Kiêm Thêm đã cho “hắn” ngang hàng với “Thượng đế”. Mà cũng đừng tưởng Thượng đế là… ông Trời cao vời vợi nhất, Thượng đế của Kiêm Thêm là... “Thiên lôi”, nói theo lối Huế mình... đùng đùng “chỉ mô đánh đó” làm cho “Bọn con trai thường thua luôn” trong đó có cả Kiêm Thêm một thời “lẽo đẽo đi về chiêm bao”...
Bằng một hình tượng cũ rích rất Huế “đứa em gái của thằng bạn” nơi Huế hay mưa…Kiêm Thêm đưa vào một đột biến. Bỗng có cơn mưa lớn ở “Los” - Ở “Los” mà cũng mưa! - ngay giữa lúc một đám mây bay qua hồn người lái xe - bỗng có tiếng “ầm” của hai chiếc xe đụng nhau.
Chiều kích không gian và thời gian xoay đột ngột, từ một hiện thực hoài niệm chuyển sang một ngã ba “tai nạn”, ngay đây - bây giờ, “thân thể nát nhừ”.
Thơ, trong chừng mực đột biến của ngôn ngữ, cũng là một thứ tai nạn. Đụng độ với cái thường nhật mãi hoài, thơ hầu như phải gây tai nạn, hay bị tai nạn với cái thường nhật để “hóa kiếp” đời thường sang một tầng trời mới, “ban phát thể tính” theo Heidegger trên từng mảnh vô thường.
“Thân thể nát nhừ” là cơn đau có thật - ai bảo đó là tình cờ cũng được - thơ chẳng phải là những cọng lá tình cờ rơi từ hư vô như R. M. Rilke và Nietzsche đã chiêm nghiệm hay sao?
Ở đây chức năng “thơ” của hiện tượng thương tích xác thịt là một chấn thương giã biệt hiện thực, trong nỗi bất lực với hiện thực. Từ đây “em hết sai bảo anh được” và có lẽ anh “sẽ đi theo thằng bạn” đến một nơi nào, lìa xa cõi trần.
Nếu không có cái chết của người bạn, nếu không xuất hiện nơi mô đó bóng dáng “hắn” và nhất là tiếng cười của “hắn”, kèm theo với sự cố tai nạn cuộc đụng xe thân thể nát nhừ, thì Kiêm Thêm vẫn còn lẽo đẽo trong sáo mòn cứ “thua luôn” một mạch.
Nhưng “Quyền năng của đứa em gái thằng bạn” mới đó tưởng đùng đùng sấm chớp hoá ra bị giải giáp lúc nào không hay.
“Hắn” không còn là “Thiên lôi” mà trở nên và chỉ là tác phẩm của nhà thơ.
Đọc “Hải đường say nắng” ấn tượng mê hoặc nhất vẫn là nỗi ngạc nhiên về sức mạnh siêu nhiên của hồn thơ đến nỗi không thể không nhắc lại câu nói của Nietzsche: “Không có thơ con người là không gì cả. Với thơ con người là Thượng đế.”
Kiêm Thêm không bao giờ muốn làm Thượng đế, cùng lắm anh là một “Bồ Tát hữu tình” có tài làm sống lại và nhấc bổng con nộm “tứ chi đầu mình…”, dứt nó thoát khỏi sức hút trần thế để cùng bay vào vũ trụ thi ca vô tận của tưởng tượng phiêu bồng.
Có thể nói Kiêm Thêm đã sáng tạo nên vũ trụ thi ca của anh trên nhiều từng mây nhẹ hửng, còn nhẹ hơn chính phạm trù tưởng tượng. Bởi thế, nói “vũ trụ” là đã trọng lượng hoá đường bay của hồn thơ, đã làm nặng gánh cái phiêu bồng trong con mắt của người chưa đọc thơ của anh.
Bởi vì trên mỗi từng mây, được đặt lên những điều rất nhỏ nhoi, ví như một xác ve, một chút nắng, chút mưa, mảnh trăng, cọng rơm, chiếc lông ngỗng của Mị Nương, tiếng khúc khích bên kia đại dương, một âm Huế rớt giữa thinh không... cả con nộm trên kia… Chúng cũng đã “thoát xác phàm” để chỉ còn xôn xao thi tứ trong một không gian Huế khởi đi từ nỗi nhớ. Có lẽ so với nội dung chất chứa trong thơ, chỉ có nỗi nhớ là “nặng ký” nhất, đam mê nhất mà chính nhà thơ thú thật không thoát nổi.
Trong thơ Kiêm Thêm, cái “thật” nhất giữa những phù phiếm vây quanh chính là cường độ thiết tha với Huế. Hầu như TÌNH HUẾ bao trùm mọi chiều kích ngôn ngữ, Huế là “Như Huế” mà cũng “Như em”
“Cắt từng miếng da non nhìn xem, tôi vẫn vậy/ Chảy ròng ròng trong máu nước sông Hương”... Bỗng tôi thấy em cũng về lại đó.../ Tôi lại cùng em đi thăm chợ Tết/ Em nép mình sưởi ấm với vai tôi/ Đôi mắt, nụ cười, môi hồng rực rỡ/ Huế đây rồi nhờ có em tôi (HĐSN, Chỉ có anh mới nhận ra em)
Khởi đầu của điểm khởi đầu “tiếng thơ” là âm ba của một bóng dáng mơ hồ nào đó “Em vô lượng vô biên cho anh đôi cánh mỏng” như một thứ “không thanh” xướng lên làm hiển hiện cả trời đất cỏ cây, tiếng vọng của nghìn năm hoá kiếp “Huế mà em” cuộn mình trong cái kén nhớ, khi được bung ra thì đó là “cầu vồng bảy sắc”, là “vạn hoa”..
“Mọi sự đã có đổi khác/ Mây thì trong, gió hiu hiu lạnh/ Cây cỏ đổi màu/ Phía chân trời cầu vồng bảy sắc/ Còn em thì sao/ mùa xuân sắp tới rồi/ em đổi sắc/ chào đón xuân mới/ em mặc áo màu kính vạn hoa/ đẹp tuyệt vời/ như thế là em đã hơn cầu vồng bảy sắc/ nhớ thuở xưa anh vẫn chơi kính vạn hoa đó/ nhìn hoài, bỗng thấy em trong đó/ em rực rỡ hơn các sắc màu/ khiến anh mê đắm/ thế ra em đã có từ ngàn năm trước. (HĐSN, Người mặc áo màu kính vạn hoa, 42)
Nghìn trước đến nghìn sau, hoài niệm, tình yêu, ước mơ, chán nản, xót xa, tuyệt vọng là những phiến màu trong kính vạn hoa khởi động sức tưởng tượng vút vào một điểm xa đang phóng chạy ngược lại với mắt nhìn. Càng xa, xa ngái chừng nào thì tưởng tượng càng chắp cánh bay, bay mãi cho đến khi bỗng sắc màu biến thành hình hài đi đứng nói cười, buồn bã tuyệt vọng, i hệt như người đời thường, và còn thật hơn, hiển nhiên hơn đời thật:
“Phải rồi, Huế sống dậy, đi đứng lao xao/ Kể cả tiếng guốc em đã vang trong quá khứ”. (HĐSN, Được nhìn lại Huế)
Thời gian trở thành không gian, quá khứ hiện tại tương lai đi về trên con đò kết hoa “vạn thọ” xuôi ngược trên nhánh sông có “căn nhà em… mà tôi qua đó” trên những luồng máu qua tim.
“Lần này thì giấc mơ tuyệt vời biết bao.../ Chiếc thuyền được kết hoa vạn thọ/ Cùng những sắc màu khác.../ Chiếc thuyền hoa đi trên dòng sông Hương…” (HĐSN, Con đò có kết hoa vạn thọ)
Có nghĩa gì đâu khoảng cách không gian giữa bên kia Los với bên này Huế? Chỉ cần nghe kể tiếng mưa là mưa đã không dứt, chỉ cần đọc “em đi Hà nội” là tôi đã viễn mơ: “Khi tôi đến Hà Nội đang nắng/ Phố xôn xao và gió thì hiền/ Những cây phượng vàng ửng lên vành môi/ Người con gái đi qua phố/ Tôi lạc lõng tìm em” (HĐSN, Viễn mộng Hà Nội)
Chỉ cần nghe em rời Huế là đã quặn lòng biệt ly: “Em đi, Huế xa vắng tiếng reo cười/ Ngay ngọn cỏ may cũng nhớ ánh mắt đó/ Ngọn hải đường ủ rũ/ Vì nhớ gót chân người đi” (HĐSN, Tưởng nhớ)
“Ruột quặn thắt bởi nghĩ tới nơi đó/ Đừng trách những cơn mưa của Huế/ Đừng oán những con ve kêu khi mùa hạ về/ Nếu Huế không buồn thì anh đâu làm thi sỹ…”
Sức sống trong thế giới tưởng tượng của Kiêm Thêm, ngược với đinh ninh cho rằng tưởng tượng là tấm kính mờ phản chiếu những thực thể hiện tiền,- mãnh liệt và ào ạt, bất ngờ nơi chiều kích ngôn ngữ phẳng trong nghĩa đánh mất không gian ba chiều nhưng lại đa tầng theo nghĩa những đám mây đã thoát sức hút trọng lượng trái đất để lớp lớp bay vào vô hạn.
Tưởng như là khuôn sáo khi nói đến cái tình nhớ Huế, nhiều khi đã trở nên một thứ truyền nhiễm trên thi đàn về Huế dễ gây dị ứng phản cảm. Tưởng như quá đỗi tầm thường khi Kiêm Thêm ca ngợi tình yêu, hoài niệm Huế bằng lộng lẫy ngôn từ đế vương.
Tưởng như giả tạo khi Kiêm Thêm sử dụng lại những khái niệm nặng nề từ chương bày tỏ yêu thương, để ngần ngại như tôi đã ngần ngại ban đầu khi mới ghé mắt đọc với tâm trạng sẵn sàng... chạy.
Nhưng không, thơ Kiêm Thêm níu chân người đọc, bằng chính bước nhảy nhẹ hửng của anh ra khỏi từ trường khuôn sáo ngôn ngữ, đồng thời cởi trói người đọc ra khỏi mọi sức ép quán tính của định kiến, chấp chặt vào khái niệm và thực thể hình hài: vừa vạn tuế nữ hoàng đội vương miện xong thì em được thưởng thức “rau khoai anh trồng”, và rước em không phải võng lọng xênh xang mà “châu chấu, chim chìa vôi, chiền chiện... có khi cả “chim ác là”, “Ngay cả con giun dế sắp hàng đón em tới”. Không ngựa xe sơn son thếp vàng mà là “con đò kết hoa vạn thọ” đưa em... và
“Con sáo hát khúc sang sông”. Có khi buồn da diết mà vẫn nhớ “con kiến đen” “Đã chết đêm qua/ Em nhớ tẩm liệm nó với cánh mai khô” (HĐSN, Mai mốt em không còn ở căn nhà đó)
Có khi nghiêm trọng chết người như:
“Em ngồi đó như Phật Bà”/ rồi hỏng mất khi em lụ khụ/ “Lại mặc áo vàng như Sư Cụ”
Và liền theo sau:
Có ai đó tặng em hoa hồng tươi sung mãn
(Nên nhớ đây là cổng chùa nơi trang nghiêm, thọ giới) (HĐSN, Nữ Thiền sư)
Hai dấu mở ngoặc và câu nhắc nhở chính là chìa khoá mở tung xiềng xích mọi tuyệt đối hoá “EM”, “Phật Bà”, “Sư Cụ” để rồi:
“Anh đang theo Thầy Huyền Trang thỉnh kinh ở Tây Trúc/ Khi về ngang đó/ Anh bỏ Thầy để dừng lại nghe em đọc thơ Thiền và ngắm trăng...” (HĐSN, Nữ Thiền sư)
Rất Kiêm Thêm nơi “bỏ Thầy”, dẹp hết, quên hết mọi chuyện trên đời.
“Anh bây giờ trở lại người bình thường/ Nỏ thần và gươm đã bị vô hiệu hoá/ Ngay cả thành Cổ loa/ Cũng đã dẹp bỏ/ Anh sẽ đi theo em/ Về chơi Huế” (HĐSN, Lông ngỗng và cuộc tìm kiếm kỳ thú)
Bằng thủ pháp “làm rỗng” mọi “cái có” (das Haben, l’ avoir, having) có thể khởi lên từ những khái niệm ngôn ngữ thường nhật, Kiêm Thêm đã mang người đọc vào chân trời thể tính thơ (Sein, être, Being), như Nietzsche đã nhận ra: “Thế giới ảo là thế giới duy nhất”. Ở đó luật chơi là cấm ta đồng hoá với những khái niệm đóng khung, lầm tưởng ảo ảnh là thật, ở đó những định kiến đạo đức dựa trên cảm tính ghen ghét không thể tồn tại, tiểu ngã ganh tị nhường chỗ cho đại ngã yêu thương. Nếu có ghen thì giận lẫy đóa hải đường vô tình “đẹp mà đong đưa” (HĐSN, Hải đường say nắng)
Nơi đó, như hải đường SAY trong chính tự tính của hải đường yêu nắng, nhà thơ mê đắm đuối, khổ tận cùng, hân hoan đất trời và đau xót hư vô. Và chưa phải là lần cuối, nhà thơ nhận ra cuộc thám hiểm là cuộc thám hiểm thế giới của buồng tim rung động, phập phồng hiện sinh giới hạn:
“Trái tim bên trái tôi như muốn kêu lên/ Hãy níu lấy cơn mộng tuyệt vời/ Hãy giữ giây phút hiếm quý/ Thật khó trong đời mỗi người”. (HĐSN, Trái tim ở bên trái)
Chỉ có tưởng tượng là vô cùng:
“Anh thấy trong tim em dòng sông Hương trôi chảy/ Có chiếc đò chiều và giọng hò.../ Chính anh thấy trong tim em ở một góc khuất/ Lưu lượng của những mặn nồng/ Có ngọn lửa âm ấm cháy sáng/ Có âm thanh một chút cuồng điên (HĐSN, Cuộc phiêu lưu kỳ lạ)
Mọi sự dừng lại để suy diễn cái này là đúng hay sai đều vô ích trong cuộc thơ này. Ngay cả “hắn” trên kia và tôi, người đọc, lắm khi cũng sa đà và sa ngã cho rằng chính mình là “nhân vật” trong thơ, không biết rằng thế giới thật bằng xương bằng thịt là giả hợp mà sức tưởng tượng chính là chân tình thi ca.
Đọc thơ Kiêm Thêm, là tận hưởng chân tình ấy trong cảm nhận càng lúc càng sâu thể tính thơ là tự do tưởng tượng trong vô lượng yêu thương đời người nhỏ nhoi giới hạn.
Rằng, cả Huế, cả anh và em “Bắt đầu làm lại một bắt đầu”.
Mà
“Rốt cuộc như cọng bèo/ Mình sẽ đến Thuận An/ Trước khi trời tối” (HĐSN, Cuộc phiêu lưu kỳ lạ)
Huế tháng 6/ 2009
T.K.L (246/08-09) |