Tạp chí Sông Hương - Số 123 (tháng 5)
Eugénie Grandet, cuốn tiểu thuyết của thời gian ngưng đọng(1)
14:58 | 17/12/2009
SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.
Eugénie Grandet, cuốn tiểu thuyết của thời gian ngưng đọng(1)
Ảnh: antiqbook.com

Bảo quản, ngấu nghiến, phục chế, ghi nhớ hay bồi hoàn thế giới Tấn trò đời được xuyên suốt bởi những lực lượng cứ ra sức chống lại vương quốc của thời gian. Không phải tất cả nhân vật bandaxiêng thảy đều là những chàng Rastinhac ra đi trong cuộc chinh phục Paris, mà còn có nhiều nhân vật tự chôn mình nửa sống nửa chết như những người sống sót của nền quân chủ cũ hay lui tới các thính phòng trong Béatrix hay trong Phòng chứa đồ cổ. Trong Cô gái già, Rose Cormơn xứng với tên Pénélope hơn cả con ngựa cái của bà ta. Trong Miếng da lừa, để chẳng còn phải ước ao một cái gì, Raphael de Valetin đã biến ngôi nhà mình thành một khu vực hoàn toàn tự động hóa, cửa ra vào cứ tự mở trước anh. Tiết kiệm cả lương thực nữa: trong Thầy Cornélius, hai ông già chồm chỗm trên kho của mình, cùng chén với nhau một quả trứng lacoóc. Cũng chính do hà tiện mà ngôi nhà Grandet biến thành một cái hang không ánh sáng, không ấm áp, không sắc mầu. Như thể tất cả bọn họ đã bị bỏ bùa mê, như thể chủ nhân ngôi nhà giống như vua Midas đã nhận được năng khiếu biến thành vàng mọi thứ ông chạm vào: không có gì lạ khi chính trong văn bản này, từ vàng đạt lên đỉnh các tần số [...] Về nhân vật này, được so sánh với con yêu râu xanh trong bản thảo, người ta có thể nói hắn là một con yêu tinh hiện đại, lấy tất cả mà không trả lại, không chuyển giao một cái gì. Eugénie Grandet là cuốn tiểu thuyết của thời gian bị chững lại.
[...]

Trong Eugénie Grandet, mỗi người mỗi vật đều phải tuân theo luật bảo quản do Grandet áp đặt. "Không làm hao tổn một cái gì "là công thức của lão. Giống như loài quạ, mà Gradet nói rằng "giống như mọi người, chúng ăn thứ chúng tìm thấy, "với lão, những con người cũng tự nuôi sống bằng xác chết: "Chẳng phải chúng ta sống bằng người chết đó sao? Thế thừa kế là gì vậy? "Chính vì cháu trai lão bị phá sản mà lão cảm thấy "một kiểu trắc ẩn" đối với chàng, trong khi lão vẫn nghĩ rằng "bố chết trước con" là điều bình thường. Cái chết chẳng quan trọng gì với Grandet, trừ phi cái chết đó có nguy cơ mở ra một khoản về "thừa tự" khiến lão bị truất quyền sở hữu. Chỉ trong trường hợp đó chết mới thành một tai họa trọng đại. Trên phương diện phá vỡ một sự liên tục, nó trở thành một biến dạng quá thể đối với con người hà tiện này, đã một lần khinh suất trót sinh ra một đứa con: "Hãy cố giữ gìn vợ tôi cho tôi [...]", Grandet căn dặn ông thầy thuốc như vậy. Bà Grandet chết mà chẳng chiến đấu gì, đúng như "một nô lệ" khốn khổ, nhưng tất cả vẫn diễn ra tốt đẹp vì Eugénie khước từ của thừa kế của bà mẹ.

Các đồ ăn chế biến để dành thì tầm thường hơn, kiểu nho mà Eugénie mời cha mình và cậu em họ: năng lực chế biến để dành của tỉnh lẻ vốn nổi tiếng. Nhưng trò chơi chữ của người bán muối quá đáng tới mức câu đó mở đường cho cái Grotexque bước vào truyện kể có màu sắc trung độ này, và khiến tất cả thành phố Saumur (2) lật nhào vào một chậu nước muối:

"Bà ta còn khả năng sinh con đấy, người bán muối nói, bà ta được bảo quản như ngâm trong nước muối, nói trộm phép".

Ta có thể phát triển đến vô tận hệ biến hóa về sự sấy khô và quặng hóa này vốn là rường mối truyện kể của cuốn tiểu thuyết. Ngay cả đến những cây dương vốn sinh lợi tốt, Grandet vẫn thấy chúng quá tham ăn, bởi chúng "ngốn" năm trăm gốc cỏ chăn nuôi đáng lẽ lão có thể trồng vào đấy. Sau khi vợ chết, Grandet luyện cho con gái những "cung cách hà tiện" của lão một cách có phương pháp.

"Lão lần lượt và chậm chạp dậy cho con tên, diện tích ruộng nho và ấp trại của lão".

Cuộc đời họ đơn điệu tới mức chỉ cần vài dòng là người kể chuyện có thể bao quát được giai đoạn đi từ cái chết của bà Grandet tới cả cái chết của chồng bà:

"Năm năm trôi qua, không một sự cố nào đánh dấu cuộc sống của Eugénie và cha nàng. Cũng chỉ vẫn những hành vi giống nhau, lúc nào cũng được hoàn tất như động tác đi lại đều đặn đo giờ của cái đồng hồ quả lắc cũ kĩ.

Trong tính hà tiện kín mít, trong khu nhà cửa đóng then cài, nơi đó người ta nhập kho mà không tiêu pha, chỉ duy nhất có một sự cố "tiến triển nhanh", đó là bệnh liệt của lão Grandet, bản thân bị biến thành tượng trước khi chết. Sau tám năm, trong thính phòng của người phụ nữ chỉ biến thành Cô de Froidfond đối với những kẻ nịnh bợ bao vây nàng, điều khác biệt duy nhất - điều tiến bộ duy nhất theo như văn bản, đó là bó hoa của ông Chánh án đã trở thành thường nhật:

"[...] cái cảnh bắt đầu câu chuyện này cũng gần giống như trong quá khứ. Bầy chó săn vẫn theo đuổi Eugénie và các triệu bạc của nàng, nhưng bầy chó nay đông hơn lại sủa hăng hơn và đồng loạt bao vây con mồi của chúng. Nếu Charles có đến từ đáy sâu vùng Châu Á (3) tất yếu chàng ta sẽ vẫn thấy lại cũng những nhân vật ấy và những quyền lợi ấy".

Đặng Thị Hạnh trích dịch từ bản thảo
Làm bằng muối và vàng: Eugénie Grandet, một câu chuyện không có lịch sử.

(123/05-99)



---------------------------------
(1) Nguyên văn: "Cuốn tiểu thuyết của thời gian bị chững lại". Câu này trong bài viết của bà Mozet được người dịch đưa lên làm đầu đề bản dịch.
(2) Khi Nanon được Eugénie cho 12.000 phrăng sau khi bố nàng chết, Nanon đã lấy chồng và mặc dù 59 tuổi rồi vẫn béo tốt hạnh phúc. Người bán muối nói đùa về chế độ ăn kham khổ của bà ta ở nhà Grandet bằng cách chơi trên chữ Saumur (tên thành phố) và chữ saumure (nước muối, nước mắm).
(3) Les Indes: từ chỉ chung các thuộc địa cũ (phần lớn của Anh ở vùng Nam Á.





 

Các bài mới
Đêm bơ vơ (21/12/2009)
Các bài đã đăng
Tản mạn Balzac (17/12/2009)
Nhật ký (15/12/2009)