[if gte mso 9]> Chạm mặt đầu tiên với những vần Hài cú, trực cảm thi ca của nhà thơ về “khoảng trống”, “sự im lặng”, “cái rỗng không quá thực” như thứ “rỗng của tấm gương hay của một ví đựng tiền” đã từng bàng bạc trong ngôn thi của ông, trở nên tri giác rõ rệt về cách thể nghệ thuật đến từ tĩnh không, khổ hạnh ngôn ngữ, đến từ chiều kích đảo ngược, từ bỏ âm thanh, sắc màu: …“Đó là một câu hỏi lớn về nghệ thuật, về tất cả mọi nghệ thuật… bao nhiêu quằn quại để cảm nhận được mảnh im lặng chen giữa những âm thanh trong một nhạc phẩm, một thứ im lặng thế tục… Và trong thi ca, biết bao nhiêu khoảng trống thực sự bàng bạc khắp nơi, giữa những chữ, giữa những đoản khúc cấu kết nên bài thơ...; sự thành công hiếm có và diễm tuyệt trong cách đưa một sự vật (chose) tưởng tượng vào trong một không gian thích hợp, có nghĩa hội nhập nội tại, như bà đã thực hiện, làm cho tôi nhớ đến những bài thơ Hay Kay, những hợp thể nhỏ bé thi vị đã được những người Nhật Bản sáng tạo từ thế kỷ thứ 15. Bà hãy tự mình phán xét về nghệ thuật này, mà người ta gọi là “một chấn động ngắn ngủi”, tuy nhiên nó bắt người gặp nó dừng lại lâu hơn (…)”(2) Dĩ nhiên “Hay Kay” đã là một thử nghiệm ngôn thi thú vị cho nhà thơ đang ở trên bước đường sáng tác mang tính toàn hoàn vũ không ngừng nghỉ với bất cứ một ngôn ngữ nào. Ba bài thơ “ba dòng” “Hai Kai” của R. M. Rilke được xem như là những bài thơ đầu tiên trong lịch sử nghệ thuật thơ Hài cú tiếng Đức. Với chúng, thơ của Rilke thường đem lại những chấn động bất ngờ làm người đọc dừng lâu. Một số bài thơ Hài cú của R. M.Rilke gồm những bài bằng tiếng Pháp và tiếng Đức I. Những bài có tựa đề “Hai-Kai” 1. Hừm, mang trái nặng hơn hoa Nhưng đó không phải cái cây nói Mà một người đang yêu C’EST pourtant plus lourd de porter des fruits que des fleurs Mais ce n’est pas un arbre que parle C´est un amoureux (R.M.Rilke, SW I I, S. 638) 2. Thiêu thân chập choạng huyên thiên từ bụi cây Chúng chết chiều hôm nay và sẽ không bao giờ biết Rằng xuân chưa đến Kleine Motten taumeln schauernd quer aus dem Buchs Sie strerben heute Abend und werden nie wissen, daß es nicht Fruhling war 3. Giữa hai mươi thứ phấn Nàng tìm một lọ đầy: đã hóa đá ENTRE ses vingt fards Elle cherche un pot plein: devenu pierre (R.M.Rilke SW I I, S. 745; viết vài tháng trước khi mất) II. Những bài thơ ba dòng theo thể Hài cú 1. Tôi họa mi, tôi, mà em đang hát đây. Tận trong tim tôi, giọng đó thành bạo lực Không sao tránh khỏi Ich bin Nachtigall, ich, den du singst, hier. Mir im Herzen, wird diese Stimme Gewalt nicht langer vermeidlich (R.M.Rilke, SWI I, S. 61) 2. Chúng đã muốn nở hoa Và nở hoa là đẹp; nhưng chúng ta muốn chín Có nghĩa thành tăm tối và khổ công Sie wollten bluhn, und bluhn ist schon; doch wir wollen reifen, und has heißt dunkel sein und sich bemuhen (R.M.Rilke, SW I, S. 521) 3. Sao, suối, hoa hồng, nhà, và như luôn biết, càng nhiều tên càng không tên nào nói đủ nghĩa hồng hoa Stern, Quelle, Rose, Haus, und wie er immer weiß, je mehr der Namen kamen es reicht kein Name je fur ihr Bedeuten aus (R.M.Rilke, SW I I, S. 477) 4. Những dòng thơ trên mộ của nhà thơ được xem là những dòng Hài cú huyền diệu Hồng hoa, ôi mâu thuẫn trong veo, khoái lạc, Là giấc ngủ của không ai dưới bao nhiêu Bờ mi Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern (R.M.Rilkes Grabspruch) THÁI KIM LAN (giới thiệu và chuyển ngữ) (SH274/12-11) ---------------------- 1. R. M. Rilke, thư gửi bà Gudi Nolke ngày 4. 9. 1920 trong Những bức thư gửi bà Gudi Nolke trong những năm ở Thụy Sĩ, Paul Obermuller chủ biên, Insel-verlag, Wiebaden 1953, S. 63 2. Briefe aus den Jahren 1914-1926, thư gửi bà Sophy Giaque (một nữ họa sĩ người Pháp-Thụy Sĩ) ngày 26. 11. 1925 |