Tạp chí Sông Hương - Số 432 (T.02-25)
Huế - Réunion
08:59 | 28/02/2025

BẢO THƯƠNG

Người lái taxi hỏi anh, ngài có cần tôi giúp gì không? Jean lơ đãng nhìn ra ngoài cửa kính, bầu trời trong xanh, sau một trận mưa nhỏ, rửa sạch bụi bặm của những trận nắng hạn khôn cùng ở xứ sở này, mà lần đầu tiên anh đặt chân đến, trong vòng một tuần nay.

Huế - Réunion
Minh họa: PHAN THANH BÌNH

Nắng cháy da cháy thịt, nắng làm má cô gái Huế thêm nâu giòn, nắng làm cho đôi chân người thiếu nữ cũng nhanh nhanh hơn trên Đại Nội, chiếc nón bài thơ che nghiêng, con đường Phượng Bay, tà áo dài phấp phới che chiếc eo thon, cắt vào hồn anh một điệu lạc nhịp, làm tim anh rung lên những cơn chấn động, nó rung lắc dữ dội có lúc anh thấy đau, nỗi đau như xé lòng như cắt cứa, như xoáy sâu vào da thịt.

Thùy đấy, Thùy của anh, Thùy có chiếc eo thon, Thùy là tà áo mỏng, Thùy là mây trời non nước, Thùy - tấm voan Huế mỏng mờ giăng mắc khuôn mặt kinh thành cổ kính, những đám mây ánh hồng, vẻ sắc vàng xám đỏ, những rừng thông u tịch, thâm u, và những tượng đá im lìm, Thùy cũng im lìm như thế, Thùy rộn ràng náo động làm lòng anh tươi vui, mà Thùy cũng u tịch như rừng thông u kín những nỗi niềm... Tất cả những cô gái Huế đều vậy, tất cả những người con gái Việt Nam đều thế phải không? Anh hỏi câu lơ đãng, theo chân tà áo dài mỏng trên con đường Phượng Bay, rồi tà áo đó cũng biến ảo sắc hình, lẩn khuất vào một ngõ ngách nào của con đường chằng chằng những bóng phượng, xanh rì của những tán cây trong Đại Nội, hư không, huyễn hồ, mê hoặc, đó là Huế ư? Anh cười, cho những tưởng tượng của mình, anh đã biết gì về Huế mà kết luận, anh biết gì về con gái Huế mà nói, càng không biết gì về con gái Việt Nam.

Chỉ nhớ lần đầu gặp Thùy ở đại lộ Paris, tà áo tím của cô đã hút hồn anh mãnh liệt. Chào bạn, bạn đến từ nước nào? Tôi đến từ Việt Nam, bạn biết nơi đó chứ? Ồ thưa quý cô, đó là một đất nước xinh đẹp, có Hạ Long, có Sa Pa - là bạn bè anh kể - còn chiến tranh nữa không thưa cô? Thùy bất ngờ cất lên tiếng cười giòn giã - Sao ai gặp tôi cũng hỏi về chiến tranh vậy? Anh bẽn lẽn xấu hổ - thì sách vở nói với tôi. Đất nước tôi giờ hòa bình rồi, bảo đảm anh đi trên đường phố cả đêm cũng không có viên đạn nào bắn phải. Jean cười, điệu cười hồ hởi, như được cởi lòng, đúng hơn được người đẹp chiếu cố. Rồi câu chuyện bất tận về lịch sử hai dân tộc, về ngôi làng nhỏ nơi quê hương anh, nó nằm tận Ấn Độ Dương, ở đó có làng chài, cũng cây dừa, lá cọ, những loại cây vùng nhiệt đới, mà anh đã mời một lần cô đến, sẽ gặp mẹ anh, người đàn bà làm nghề y tá, yêu con sâu sắc, bà dạy anh sự tận hưởng cuộc sống, và cách ăn mặc sao cho thời trang nhất. Con cần trở thành quý ông thời trang nước Pháp, biết yêu bản thân một cách tối đa, biết tận hưởng cuộc sống một cách tối thượng, Chúa cho con điều đó, con hãy nhớ. Cô nhìn chiếc quần chinos anh mặc, chiếc áo peacoat màu xanh cổ điển, và tấm khăn lụa ngà quấn cổ. Bấy giờ anh cũng nhìn vào tà áo dài bay bay của cô, màu tím Huế, và mảnh khăn choàng màu hoa diên vĩ, làm nổi Paris lên một chiều thu xứ sở đó. Và cả hai người bất giác mỉm cười như đọc được ý nghĩ của nhau. Cô gái, trang phục cô mặc trên người thật tuyệt, nó là ráng chiều nơi đất nước tôi, cô nhìn kia, tấm voan kỳ diệu của thiên nhiên làm bằng áng mây mỏng tờ nhất cũng không thể sánh bằng tà áo dài thướt tha truyền thống của xứ sở cô. Thùy lại mỉm cười, bởi lời khen quen thuộc cho tà áo truyền thống cô vẫn mặc nhiều khi.

Đó, kỷ niệm về Thùy trong lần đầu tiên anh gặp. Và còn nhiều lần nữa, khi anh gặp cô trên giảng đường, lúc dưới tàng cây vàng lá mùa thu, khi dưới màn mưa sân nhà ký túc, có lúc ở hàng kem phố Montaigne, có khi cô tung tăng cùng những người bạn châu Á trong những tiệm cơm nhỏ của người Tàu, có lúc ở bến xe điện ngầm, có lúc ở trạm Metro. Lần nào, Thùy cũng mang một vẻ đẹp kỳ lạ, một vẻ đẹp Á châu không lẫn vào đâu, mỏng hờ như tấm voan Huế nơi quê hương cô, nhẹ bay như một làn mây mỏng và mê huyền huyễn hoặc như thâm u cổ kính của xứ sở Đông phương nhiều huyền bí, nhiều linh cơ huyền diệu. Thùy là thế, và họ yêu nhau tự lúc nào, chàng trai đến từ đảo Réunion, có làn da ngăm pha trộn giữa hai sắc dân trắng và màu, của cha và mẹ. Anh có đôi mắt hút hồn như nam thần trong truyện cổ. Cặp môi to viền gọn, che đủ hai hàm răng lấp lánh, mỗi khi anh cười, cả khuôn miệng như nở muôn ngàn những tinh anh của loài hoa biểu tượng riêng cho nam giới, trong câu chuyện thần thoại người Hy Lạp, mà vô tình cô nghe được. Hoa cát cánh - Thùy có lần ghé tai anh thì thầm, khi nụ cười của anh lại bừng lên mỗi khi thấy nụ cười của cô lấp lánh, hai vẻ đẹp mê hoặc, hút hồn nhau.

Thùy và Huế.

Anh thường đứng ở tầng tư khách sạn bé nhỏ nhìn ra sông Hương, những giang đoàn vào bến, những con thuyền rộng nối nhau, xa xa là Cồn Hến, xóm chài ríu rít ánh đèn mô tê lập lòe vào đêm, như ma trơi chập chờn, mờ ảo, như linh hồn xa khơi nào đó của nữ cung, hoàng tử, công chúa, hiện hình về vào đêm Huế trăng thanh, vào đêm Huế mưa phùn, vào cả những đêm Huế lộng gió kinh thành cổ kính. Cồn Hến, những lũy tre, vòm cây, dập dờn ánh nước sông Hương, con đường Phượng Bay và trường nữ sinh Đồng Khánh. Thùy đã học ở đó, Thùy đến từ đó, Thùy mặc áo dài đi hết hai hè phố này, Thùy cũng thả tóc, gõ nhịp guốc vào khuya mỗi khi trở về từ ca học tối, Thùy cũng đội nón lá đi giữa hai hàng me, lá rơi vào tà áo mỏng, Thùy cũng tàng hình vào một vòm cây nào đó, vào lấp lóa của ánh nước sông Hương, phản chiếu cùng màu tím mơ của bằng lăng nở rộ mỗi dịp hè. Thùy là cô gái tàng hình lúc trước, hay Thùy là ai? Anh bần thần chững lại, nhìn sâu hơn nữa vào những con thuyền rộng nối đuôi nhau trên mặt nước, đi về phía cầu Dã Viên, đi lặng lẽ dưới chân cầu Trường Tiền, chui qua đó, để đến phía Đập Đá, hoặc ngược lên phía Tuần, nó còn đi đâu, ôi những con thuyền xứ Huế.

Nhưng Thùy đã sang sông, như cách nói của người Việt về việc một cô gái lấy chồng. Sang sông ư, lòng anh lặng ngắt, một mũi đâm xuyên thấu vào trái tim, đang rỉ máu. Ơi con đò ấy chở hoài/ có mang nổi nhịp của người em thương/ anh đến tìm thì em đây đã ngả/ rẽ lối nào sao anh nỏ thấy mô/ Hò ơ... Tiếng người ca nữ trên bến nước Hương giang vào đêm trăng hôm đó, ngày anh mới đến, giọng hò lai láng trên sông, giọng hò vỡ ra theo sóng, giọng hò gắt lên cùng trăng và tỏa đi theo muôn ngàn tia gió, giọng hò chập chờn vào ánh lửa hoa đăng rập rờn trôi trên sóng, lung linh lung linh, chao đảo, nghiêng chao, mà lòng anh vỡ nát. Mỗi ngọn đèn hoa đăng trên sóng, như nửa trái tim vỡ trôi dạt xa xa... Hò ơ, ơ hò... Sợ khi anh có tìm về/ em đi lấy chồng anh vẫn nỏ tin... Người phiên dịch đã dịch cho anh như thế, anh vội vàng lấy giấy bút ghi lại những ký âm, và xuất thần hát trên nền nhạc của Pháp bằng giọng điệu dân ca xứ Huế. Anh mượn ca đoàn cây ghi ta và bập bùng hát lên điệu khúc của Pháp, lồng nhạc của Huế, làm cả con thuyền chao đảo, làm cả giang đoàn lắc lư, làm những ngọn hoa đăng trôi mãi như ngập ngừng, và làm mắt ai rưng rưng giọt lệ, khi một kỷ niệm dội về, cô gái Huế ngồi ở góc xa nhất của con thuyền trăng đêm ấy, nghe anh hát khúc ca Pháp lồng trong làn điệu dân ca Huế, anh vẫn nhớ, mắt cô rưng rưng, hòa điệu cùng lòng anh cũng rưng rưng...

Nghĩ đến kỷ niệm đó, bất giác, anh bước mạnh, anh cảm giác tim mình sẽ thôi đập, chỉ một chút thôi, kỷ niệm về Thùy lại trỗi dậy. Người lái taxi có hỏi anh, ngài có cần tôi giúp gì nữa không. Nhưng anh dường như không nghe thấy.

Anh đã trở về từ chuyến đi đó, và giờ anh đứng ở đây, trên lầu tư khách sạn nhỏ, nằm giữa những tàng cây cổ thụ, và nằm trên bờ con sông Hương thơ mộng. Từ đây anh nhìn ra xa, thấy ngôi trường nữ sinh Đồng Khánh, thấy ngôi miếu nằm giữa bờ cỏ dại xanh rì, thấy con chim sông cánh mỏng chao liệng, những cánh bướm rập rờn, đôi chuồn chuồn đỏ vờn nhau, và tiếng còi xe từ con đường xa vang lại. Thùy giờ đã ở đâu, sang sông, có xa bằng chỗ anh sang phía bờ bên kia không, phải qua lòng sông rất rộng, những cây cầu nối đôi bờ, và giữa đó là cù lao nhỏ, xóm thuyền chài xúm xít, những mô tê ánh lửa lập lòe và những câu hò dành riêng cho sông nước, và tiếng nhạc bập bùng một điệu hồn, mà anh tin, nó được sản xuất trên chính lòng sông, dịu dàng, mênh mang, sâu lắng, và da diết trầm tư, lãng mạn và du dương này. Đó chính là điệu hồn Thùy, điệu hồn xứ Huế.

Thưa ngài, tôi đã nghĩ, người anh họ của ngài có nguồn gốc gần nhất với quý công tử, giờ đang sống ở con đường Đinh Tiên Hoàng, phía bên Đại Nội, gần cửa Thượng Tứ, nơi chúng ta đi ngày hôm qua, đó là những tiệm may áo dài cạnh những tiệm chè. Công tử giờ ở đó với người vợ làm nghề bán chè. Đó là dòng tộc gần nhất của anh họ ngài. Người lái taxi, kiêm luôn nhà điều tra gốc tộc cho người anh họ của Jean.

Jean dành cả ngày hôm qua để lang thang ở xóm ngoại ô, mà người lái taxi khẳng định, nếu đúng là cựu hoàng T T, thì đây chính là ngôi làng mà ngài sống thời tuổi thơ nghèo khổ bên một người mẹ tần tảo bị thất sủng, làm nghề đan nón, rồi một ngày, thay đổi sơn hà, bao phen biến cố, mà kiệu hoa lính tráng rầm rộ kéo đến, làm thay đổi xóm nghèo, đưa cậu bé về cung, cho mặc áo bào và lên ngôi, để cho người con gái xóm chài ngẩn ngơ trông theo mãi.

Nó đây, thưa ngài. Anh ta đưa tay chỉ vào những ngôi nhà nhỏ, nằm nép mình bên những rặng bần, những trái dừa lủng ruột chảy vào mương, đàn cá tung tăng bơi lội, đám rễ cây đâm sâu vào dòng nước, vẻ đẹp mặn mòi của con sông ăn sâu vào ngõ xóm. Là anh tưởng tượng ra kỷ niệm tuổi thơ của ông nội người anh họ của anh, một vẻ đẹp Việt Nam, mà anh cũng mong muốn góp phần tưởng tượng. Người ông nội ấy đang chơi ô quan, đánh đáo, chơi khăng, thả đỉa ba ba, thì một ngày kiệu hoa kéo đến, nước mắt lưng tròng của người con gái nhà bên, tiếng thét lên đòi trằn xuống của cậu bé nhà kế cận...

Và anh nhớ đến Thùy. Thùy của anh cũng có khuôn mặt như thế, đẫm buồn nhiều suy tư... Từ cửa trông ra nàng lén khóc, từ tấm mành nhìn xa nàng đã thổn thức khi người con trai nàng thầm yêu đã cách nàng ngàn trùng, kẻ tôi đòi, người quyền quý, đức hoàng và tiện dân, thảo cỏ và chúa quân... Nước mắt nàng dầm dề như mưa xứ này anh cũng từng chứng kiến mấy ngày nay, dội xuống sau kỳ nắng hạn, dầm dề, làm nước mắt anh cũng muốn tuôn rơi...

Cậu trở về lần này nhớ lưu lại nhiều hình ảnh, nhớ tìm cho tôi gốc tộc, tôi muốn nối kết với Việt Nam bằng một tình yêu sâu kín, dòng máu đó vẫn chảy trong tôi này. Người anh họ đứng thẳng, ưỡn tấm ngực lớn mà mắt anh mờ đi, anh khóc, từ hai hốc mắt, giọt nước lăn dài. Tôi khó trở về nơi đó, nhờ cậu kết nối, tôi muốn biết tôi được sinh ra từ đâu, chiếc bánh croissant ở đây có gì gần gũi với thức ăn bên đó, con đường thoáng rộng, thảm cỏ xanh dày ở đây có gì gần gũi với thiên nhiên nơi đó, và cơ thể chúng ta ở đây, có gì khác với con người nơi đó, nhưng chỉ có cậu khác, còn tôi thì không, vì tôi cũng khác tất cả những người ở đây. Anh nói xong, quờ tay lên mái tóc đen nhánh, anh vuốt lại nó mấy lần, rồi đặt tay lên vòm ngực, lại vuốt tay vào má, sờ lần lên chiếc mũi nhỏ, làn da vàng, khuôn ngực lớn, cặp chân không quá dài, anh mang sắc tộc Á rất rõ nét. Hẳn rồi, vì ông nội tôi, bố tôi là người Việt. Nước mắt anh lại chảy, trong buổi chiều gửi gắm đó trước khi Jean đến Việt Nam, mà Jean vẫn nhớ.

Jean đứng ở lầu tư ngôi khách sạn nhỏ nhìn xuống, một chùm hoa phượng lắc lư, lắc vào không gian xanh ngắt của bầu trời, nó chao động qua mặt nước sông Hương, nó lóa lên màu nắng hè, làm rực rỡ cả những chú chim nhỏ bay lượn, lúc đậu xuống những khoang thuyền, rồi niềm vui nào nhảy nhót trong lòng mà chúng chao lên chao xuống như vũ hội của mùa xuân trong lòng thành phố mùa hè, một thành phố thơ mộng, lòng Jean như có sóng, anh bỗng yêu lạ lùng không gian này, khoảng lặng này, và không khí nơi đây. Những ảng mờ hơi sương bay lên, như bắt gặp cái nắng trưa phả xuống, nó làm mờ xóm chài xa xa, anh cố dướn đôi mắt lên để nhìn vào khoảng mờ xam xám ấy, và vào bức tranh sương được pha tạp bởi màu nắng vàng trưa tháng sáu, anh bỗng thấy Thùy hiện lên, chao nghiêng vành nón lá, chao nghiêng tà áo tím, và Thùy, nụ cười tươi ẩn giấu sau chiếc lúm đồng tiền sâu hun hút, ở một bên má lõm sâu, Thùy cười nhìn anh, nụ cười duyên dáng, phút chốc, nó ẩn sau chiếc quai nón màu hồng, và lại lẩn vào hàng phượng bay. Thùy, anh muốn hét lên, anh chạy băng băng xuống phía lầu ba, đứng nhìn ngơ ngác, Thùy, rõ ràng anh đã nhìn thấy cô phía dưới con đường kia, sao không còn gì nữa, Thùy, đúng là cô, mà không, là Lụa, Lụa mặc áo bà ba màu gạch, Lụa đội nón lá che nghiêng, cài thêm nhành hoa vàng lên đó, màu áo Lụa mặc tiệp với màu hoa cài trên chiếc nón... Lụa e ấp trên con thuyền nan nhỏ, tay dẻo khua những đợt sóng, đẩy con thuyền trôi vào miền huyền dũ. Lụa đang khua thuyền, khua sóng, khua lòng anh chao đảo, Lụa quay lại cười với anh, con thuyền chìm vào trong sương, chóp nón nhỏ lẫn vào trong sương trắng, và màu áo bà ba cua gạch cũng lẫn đi cùng với con lạch chạy sâu vào xóm chài...

“Bức tranh của ông tôi thường vẽ vậy, nó pha bởi một màu lam sương khắc khoải, nó chấm mờ phía không gian xa, nó hun hút một khoảng trời sâu đến vô tận của bố cục. Màu sắc phải rồi, tôi không biết ông nội tôi đã dùng thứ vật liệu nào tạo nên sắc màu đó, tôi chưa từng thấy nó bán ở Pháp, mà bền vô độ, bố tôi đã gửi lại cho tôi toàn bộ các bức vẽ khi ông mất đi: của nội con, gắng giữ mà tìm về, nhớ tìm lại làng quê nơi có người con gái đó.”

Lời người anh họ kể cho Jean vào một đêm khuya đảo Réunion nổi sóng, cơn bão báo về chiều nay nước nặng hạt, gió quật liên hồi, mà ngọn núi lửa phía đông không ngừng hoạt động, dòng nham thạch phun ra làm nóng những hồi ức.

Lụa, anh đã nhìn thấy cô, trong lấp lóa ánh nắng của buổi trưa sang chiều, trên cồn cây có xóm thuyền chài tíu tít, những đứa trẻ nô đùa cùng những quả bầu khô để giống, bà mẹ ra kênh nhặt trái dừa lủng theo dòng chảy ngược về. Lụa, Lụa khua nước, hai cánh tay nàng trắng ngần đặt lên đôi mái chèo, mái tóc nàng thả xuống sông ánh lên cùng trời chiều một màu lam mờ khói, Lụa đang hát, tiếng hát cất cao lẫn vào giọng thanh nữ bên sông, lẫn cùng giang đoàn có người nghệ sĩ ôm đàn mỏi mệt trông vời về các hướng. Lụa... Anh hét lên.

Bức tranh này là cô ấy, cậu có nhìn thấy không, Nguyen hỏi anh vào một ngày nắng đẹp, đảo Réunion không còn sóng nổi, những bức tranh được hong khô lấy từ trên căn gác, và nó được dựng ở góc vườn trong một cuộc triển lãm nhỏ của gia đình có mời các họa sĩ của hòn đảo xinh đẹp này đến dự.

Nó thật tuyệt, màu sắc và đường nét quả không lẫn vào đâu, nhưng có một sự ám ảnh, lớn lắm, ở tất cả các bức, chính bố cục của nó ư, hay màu sắc, không phải, ánh sáng ư, không phải, một vô hình nào đó, mà người thường không thấy, nhưng tôi thì có, trời cho tôi giác quan kỳ lạ, hay 50 năm trong nghề thẩm định để tôi thấy, từ bức vẽ phong cảnh đánh cá, đến bức vẽ cỗ xe tam mã đằng kia, từ bức vẽ cửa biển triều lên, cho đến bức vẽ ngôi vườn buổi sớm, sao tôi vẫn thấy, ẩn khuất là người con gái, tóc dài, da nâu, và đôi mắt mở to, và... có phải... Người họa sĩ già lảo đảo, trong câu lẩm bẩm, rụng những tiếng vời vợi xa vào buổi chiều, nhỏ lắm, nhưng kịp đóng đanh vào đầu của Jean và Nguyen. Phải thưa ông, ông thấy điều đó ư? Đúng rồi, tôi thấy rõ lắm, các ngài...

*

Anh vượt qua Cồn Hến, bằng con thuyền đánh cá nhỏ của người đàn ông nhỏ bé. Thưa ngài, đi đâu? Hãy chở tôi vượt những chú chim sông bé nhỏ chao liệng kia, tôi muốn sang phía đó. Người đàn ông đứng thẳng trên khoang đò, ông lấy tay quệt mặt, mắt nhìn thẳng vào ánh nắng xiên nghiêng của thứ mặt trời gần như đúng ngọ đó, những giọt mồ hôi chảy dầm dề. Nhưng thưa ngài, sao phải lúc này? Là tôi muốn. Những khoảng nắng chiếu xuống làm xóm thuyền chài giữa sông như chia hai luồng sáng, lóe lên rồi lại lặn mất, nó bỗng trở nên huyền ảo hơn, trong cái nhìn không còn rõ nét của Jean. Một màn sương mờ ảo của xa xôi, của nắng, của nước, của loa lóa ánh sông, của những chú chim hiền lành chao liệng, những con chuồn chuồn rập rờn, những chú bướm dạo chơi, hay cánh diều thả lên từ phía ấy bên kia sông, chao đảo trên một bãi cỏ, rồi bay vút vào bầu không lẫn với màu xanh thẳm, mà cả hai người cố ngước mắt lên cũng không nhìn thấy nữa, phải rồi, bao trùm là màu sương khói xóm thuyền chài tíu tít, một tiếng trống chầu nào cất lên ở phía đó, tiếng dế xa xa, bóng cây dừa như chao xuống mặt nước, và mái nhà màu nâu đất ẩn chìm cùng cây đa cây cừa, dễ đâm sâu sầm vào mặt nước...

Lụa, anh nhìn thấy cô đang mải miết trên con thuyền chèo từ khoảng lạch nhỏ ra phía sông, những bông súng bông sen rải đầy trên khoang nhỏ. Lụa lấy tay hất ngược tóc lên, cô mỉm cười, cô lao con thuyền băng về phía trước, đuổi theo là đàn bươm bướm, là đàn chim, cả những con cá thia lia đủ các sắc màu. Lao nhanh, thưa ông, mau đuổi theo cô gái. Cô gái nào thưa ngài? Người đàn ông vừa cầm chèo, vừa chững lại để hỏi anh về cô gái, tưởng chừng quáng mắt, vén bức vành mũ lên, ông nhìn xa hơn nữa, nhưng tưởng vốn tiếng Pháp của mình lâu ngày không được sử dụng đã rơi rụng đi và mất dấu, nên ông không còn thắc mắc nữa. Kìa Lụa, Lụa đang đẩy con thuyền hoa trôi về phía bến, phía Cồn Hến, một nhịp sóng khỏa tay, không cất nổi cung âm khi nước rơi hình bán nguyệt, chỉ động được lòng cố nhân hoài thác ở phía những con đò dọc chở hàng hóa qua chỗ sông đây, đi về phía Tuần và đi đến đâu nữa. Lụa, hãy đuổi theo cô ấy... Bóng nón của nàng lấp lóa, mái tóc dài lấp lóa trong nắng, tà áo vàng nâu lụa mặc quét vào ráng trời một sắc đượm hoàng cung. Lụa eo thon, Lụa áo dài, Lụa cười tươi, Lụa, mà người con trai hiến mình cho sứ mệnh ngày nào cũng ngóng vọng một hoàng hoa thôn nữ, hôm nay không thấy, ngày mai không có, chưa khi nào thấy nàng, từ những trinh nữ được bắt về từ Diễn Phái, Kim Long, từ An Hòa, Thế Lại,... sao mãi không thấy bóng nàng...

Lụa của nàng ơi, Lụa của ta
Bao non nước biếc, biết hay lòa
Cấm cung đã cấm hồn trinh bạch
Quân vương não nùng một sắc thương
Quân vương cởi tấm bào ráng đỏ
Rửa hận cho mình ở bến sông
Nước vẫn đỏ au màu máu nhớ
Lụa của ta rồi, Lụa của ta...

Con thuyền chao đảo trên sông, và bóng Lụa mất hút phía cầu Dã Viên...

Đến rồi thưa ngài. Tiếng người thuyền chài cất giọng nhẹ của Huế, nhấn trọng âm vào tiếng mẹ đẻ của anh, làm anh bừng tỉnh. Con đường Phượng Bay đã trước mặt anh, nối bên kia là tiệm áo dài, hết dãy bên này là hàng chè.

Ngài muốn xem áo dài chứ, thưa ngài?

Người chủ tiệm dáng nhỏ nhắn, dẫn anh lên trên lầu, nơi đặt những tủ kính bày trưng những bộ áo dài truyền thống của xứ Huế. Màu đỏ đô, màu lam chàm, màu vàng nghệ, màu thiên thanh, hoàng yến, hổ phách, tím cà, màu cánh sen, cam mật, màu Hàng Châu, Phú Sĩ, màu hoa hường, thạch cổ. Đẹp quá thưa ông. Vâng, ông có thể xem cho bà nhà vài bộ, những quý bà phương Tây thường trở về bằng những bộ áo dài truyền thống nơi đây.

Vâng, thật đáng quý.

Người đàn bà ngồi phía sau chồng sách, nửa khuôn mặt của bà bị ẩn đi bởi tủ kính trưng bày, nhưng anh vẫn trông thấy nửa nụ cười thật tươi, cặp mắt nhỏ và đầy thân thiện cùng cái gật đầu như muốn bảo hãy xem đi, chồng tôi sẽ làm ngài thỏa mãn tình yêu đối với vải vóc, thiết kế, cùng tâm hồn người Việt, xứ Huế, qua những tà áo dài truyền thống, rồi ngài sẽ không phải ân hận đâu, hỡi quý ngài đến từ phương Tây, mà mỗi cử chỉ tôi đều biết sự kiếm tìm thích thú, khám phá tò mò, và tình yêu cái đẹp cùng xứ sở này vô biên... Không qua được con mắt tôi đâu, rồi ngài sẽ trở về xứ sở, với khệ nệ những món quà Huế, chắc chỉ trừ có mắm nêm và mắm tép mà thôi. Nụ cười ranh mãnh, lóa vào cửa kính hắt nắng vào khung cửa sổ, làm anh thấy nao nao, quen thuộc quá, phải rồi quen thuộc quá, bất giác anh mỉm cười, bất giác lòng anh dịu lại, anh muốn tiến lại gần hơn, gần hơn với bà, nếu như không có chồng sách và chiếc tủ kính để áo dài che đi.

Đây là ai. Anh tiến lên một bước, bước thêm hai bậc để dừng lại, anh đã nhìn thấy bức ảnh truyền thần, thấy lọ hương còn nghi ngút khói. Trên đó một khuôn mặt phụ nữ, cũng rất quen thuộc, ánh cười đang vấn vít cùng khói hương. Thưa ngài, đó là bà nội tôi, bà đã mất, và được thờ cúng theo đúng nghi thức của người Việt. Bà nội ông ư? Jean đứng sững lại, nét vẽ nhòe mờ của cả một bức tranh nữa, cũng đằng sau những lẩn khuất khói hương, khiến anh nhấp thêm vài nhịp. Bức tranh vẽ nửa khuôn mặt người con gái quay mặt vào phía trong, chỉ có tà áo bà ba là vảy về phía trước, mái tóc thả ngang lưng chảy tràn xuống eo, xuyên qua thắt lưng, và đổ một suối dài xuống phía dưới... Đường nét, màu sắc, cách bố cục, và ánh mắt này, nửa khuôn mặt, và dáng người, và... Anh chợt rùng mình mạnh một cái. Thưa ngài, còn bức vẽ? Đó chính là người đã ngồi trên ban thờ kia, bà nội tôi. Là bà ấy? Anh bất ngờ kêu lên. Đúng bà ấy khi còn trẻ, được tái hiện trong con mắt của người đàn ông yêu bà tha thiết, sơn hà biến đổi, ông đã là một cựu hoàng lưu vong, những ngày xa quê, ông đã vẽ người yêu xưa trong tưởng tượng, sau này, người cháu ông từ đảo xa xôi về trao lại cho chúng tôi.

Người cháu đó giờ ở đâu? Anh chộp lời, như sợ những vấn vít khói hương làm mờ đi câu nói. Người đó hiện giờ sống bên kia dãy phố. Ông chỉ tay về trước, dãy phố cổ vốn của người Tàu xưa, giờ được trưng dụng cho người Việt làm đủ nghề, nhưng nhiều nhất là bán chè Huế, thứ quà ngon ngọt mà anh đã từng được thưởng thức những ngày ở đây.

Ông nói đúng chứ, bức tranh này được gửi về từ đảo Réunion, được vẽ bởi một cựu hoàng?

Đúng thế, có gì không thưa ngài?

Không, à mà... anh đã nhìn thấy nó, cũng bức tranh này, treo ở nhà của Nguyen, người anh họ xa phía mẹ anh, bức tranh vẽ nửa khuôn mặt kia của người thiếu nữ, nàng cúi xuống khỏa nước vào con lạch, những bông súng nở dưới chân nàng, và tà áo bà ba quấn bết vào vạt cỏ, cũng đường nét này, ánh mắt này, mái tóc này, tà áo kia, và cả khoảng eo nữa, nửa khuôn mặt bên trái, đây là nửa khuôn mặt bên phải, ghép nối vào nhau, là một, chính nó.

Ông nói gì - người đàn ông chủ nhà ngạc nhiên. À không, tôi bảo, bức tranh này vẽ chính người con gái, có cái ảnh thờ, đặt ở chính giữa kia, đúng không? Đúng vậy, ông có muốn xem kỹ thêm khuôn mặt đó không?

Ồ, dĩ nhiên. Đó là một bức ảnh truyền thần. Anh tiến lại gần hơn nữa. Người đàn ông đã vén tấm voan mỏng đậy trước nghi hương, để anh nhìn rõ hơn bức ảnh truyền thần. Bà nội ông đây ư? Đúng vậy. Bà rất đẹp thời trẻ. Đúng vậy, bà là hoa khôi của vùng xứ Huế chúng tôi. Tiện tay, người đàn ông nhấc luôn bức ảnh ra khỏi vị trí, ông muốn giảng giải thêm cho người khách phương Tây muốn biết tục thờ cúng, hay sự tò mò về người con gái trong cả bức tranh và ảnh kia chăng, mà ông đã lấy nó ra khỏi ban thờ đặt nó lên chiếc bàn tràn ngập ánh sáng phía ông ngồi lúc trước. Bức ảnh truyền thần, khuôn mặt nụ cười, và ánh mắt, phải rồi, không lẫn vào đâu. Người con gái đẹp đó, Lụa, người đàn bà khỏa nước vào sông, đi trước ông mấy nhịp lúc trước, Lụa, người đàn bà lẩn khuất trong khu vườn, trong các bức tranh nhà anh họ Jean, mà người nghệ sĩ làm nghề thẩm định tranh 50 năm đã trông thấy nàng ở tất cả các chiều, các hướng, và ở tất cả các bức vẽ mà ông nội anh đã vẽ ư, kể cả bức vẽ biển khơi, bức vẽ đoàn quân La Mã, bức vẽ những cánh dơi ráng chiều, thì hồn bà vẫn lẩn khuất trong tất cả sắc màu của ông ư?

Là Lụa - anh bất ngờ thốt lên. Người đàn ông kinh ngạc - Sao ngài biết. Vâng, đã có lúc ông nói. Tôi đã nói ư? Như ảo hình, chiêm bao, như rơi vào một trạng thái lạ của vô thức, mà người đàn ông chủ nhà cũng không nghi ngờ rằng mình đã nói.

Là Thùy.

Đó là con gái tôi, sao ngài cũng biết? Giờ thì không nghi ngờ, không còn vô thức, không phải vô thức...

Bóng Lụa bay ra khỏi bức họa, mải miết, nàng uốn mình trên con thuyền tam bản chèo riết, nàng đã đến giữa sông. Tiếng cười lộng cùng tiếng khua nước, những ánh hoa đăng chao đảo, những con cá cờ vẫy sắc, những rặng tre thả rễ vào sông cũng cất lên tiếng cười.

Lụa của ai rồi Lụa của ai
Hoàng hoa chi lắm mộng thêm dài
Giai nhân giữa chốn mà đâu thấy
Lụa của ta rồi, Lụa ở đâu...
Vương quân đánh giặc về một tối
Ngước mắt trông vời bến sông quê
Hỏi người con gái hôm nao ấy
Rũ bóng kinh thành nay ở đâu?
Nàng của ta rồi, nàng ở đâu
Con đường bóng nắng chẳng thay màu
Thân thương vẫn mùa hoa cổ điển
Kinh thành khuất bóng đỏ sau lưng
Sang sông hỏi thử là chi nữa
Nàng của ta giờ, nàng ở đâu?

Đừng hát nữa, thưa ngài. Người ca nữ đánh đàn trên khúc sông, trôi theo những con thuyền trên bến, dành cho du khách tứ xứ thích nghe điệu ca buồn xứ Huế, bảo anh. Khúc Nam Ai, dẫu có nẫu nhịp thế nào, cũng không bằng giọng ca của ngài, hòa cùng thứ nhạc gì, mà tôi nghe lạ lắm.

Cô lại hỏi...

Đó là thứ nhạc gì, anh đâu biết, tiếng lòng anh trong một nhịp nhớ, một nhịp nhắc, buồn đau, cố quận, tha hương, thương hoài vọng cảnh, ca lâu, thư ẩm ư, hòa cùng điệu thương của người anh họ, khắc khoải trong từng cú lắc cọ của người ông, bảng lảng khói sương trong dáng màu điều của trông vời cố quốc, phiêu bạt nơi trời xa đó, và hòa vào cả nỗi lòng mất mát nhớ thương bây giờ của anh ư?

Tiếng hát, lời ca, hay là giọt nước mắt, hay tiếng khóc nữa, người con gái trôi sông trên khoang đò có ca đoàn Huế, đôi mắt ướt rượt dường như quanh năm, vén bức màn mây của tấm rèm mi lên hỏi anh, thưa ngài, đó là thứ nhạc gì, anh cũng đâu có biết. Lụa hay Thùy, hay người đàn ông trầm mặc trong ngôi nhà cổ kính phơi những tà áo dài may mới, người đàn bà ngồi mặc niệm bên chồng sách cũ như ngàn năm rồi vẫn thế, họ lưu giữ linh hồn của Lụa, hay linh hồn người bà nội ngàn năm vẫn trẻ trong một dáng hình, ngàn năm vẫn thanh xuân trong tấm tranh, ngàn năm vẫn thiếu nữ trong dáng ngồi, ánh mắt, khoảng eo, trong nỗi nhớ của người cựu hoàng phiêu bạt tha hương kia, và in vào đôi mắt dáng hình, tấm voan mỏng hờ và dáng điệu của chính Thùy của anh. Lụa và Thùy, Huế và Réunion, cựu hoàng và Jean, xóm thuyền chài và hòn đảo xa xôi Ấn Độ Dương, con đường Phượng Bay, phố chè hẻm, phố áo dài và nỗi nhớ thương tha thiết từ người con trai xưa, giờ lồng vào nỗi lòng anh bấy giờ...

Hò ơ...
Thương cho một kiếp bụi trần
Trắng cây đỏ lửa một phen đổi rời
Hò ơ rũ bóng kinh rồi
Tiêu phòng, lan dược về đâu hỡi người?

Giờ thì tôi nghe rõ tiếng Nam Ai, Huế, đúng là Huế, rất Huế, thưa ngài...

Người ca nữ nhìn anh trong tà mi rợp chiều buông Huế đó, nói một câu, mà làm lòng anh rủ xuống như tấm voan hồn khép lại cũng kín theo...

B.T
(TCSH432/02-2024)

 

Các bài mới
Các bài đã đăng
Ánh sao đêm (26/01/2025)