HUY CẬN - XUÂN DIỆU
Trích "Hồi ký song đôi"
Tháng 8 năm 1928 cậu tôi được lệnh của Sở học chính Trung kỳ đổi về Huế làm hiệu trường trường tiểu học Queignec ở phố Đông Ba.
Gia đình cậu tôi thuê một chiếc thuyền chở tất cả đồ đạc và người nhà đi qua Sình, rồi ngược sông đào Đông Ba đến ngay chỗ ở mới của cậu tôi. Đó là một căn nhà trong một dãy nhà cho thuê của nhà thầu khoán Tôn Thất Bằng. Căn nhà gồm 3 buồng chạy sâu vào phía sau kiểu như các căn nhà của phố Hàng Đào, Hàng Ngang ở Hà Nội. Dãy nhà này ở trong một khu phố dành cho người nghèo ở: những người buôn bán nhỏ, thợ cúp tóc, người làm thủ công, thợ nề, thợ mộc... Con sông đào Đông Ba (người ta bảo là đào từ thời Minh Mạng) ở ngay trước dãy phố Đông Ba, nối con sông Hương với ngã ba Sình đi ra biển. Trước dãy nhà là hàng cột dây điện và những cây bồ hòn, cây không cao lắm nhưng lá rậm cho bóng mát quanh năm. Quả bồ hòn chín thì rụng xuống, và những người nghèo trong phố nhặt lấy để giặt áo quần. Tôi và mấy bạn học sinh trong nhà cũng có lúc dùng quả bồ hòn để giặt áo, bọt nước bồ hòn cũng như bọt xà phòng, ngâm kỹ áo quần vào thì giặt rất sạch và rất trắng. Tôi cứ nhớ câu “Quả bồ hòn ngoài tròn trong đắng” và cái câu ai cũng thuộc “Đắng cay ngậm quá bồ hòn”, và tôi đã nếm thử thì đắng thật, súc miệng mấy ca nước cũng không hết đắng. Tôi lại cũng nhớ câu “Khi thương trái ấu cũng tròn, khi ghét quả bồ hòn cũng méo”. Tôi nhắc vậy là vì cây bồ hòn trước nhà cậu tôi đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tuổi nhỏ của tôi, vì dưới gốc cây bồ hòn đã có bao nhiêu người nhắc lại những phương ngôn trên mỗi lần họ gặp điều cay đắng trong đời. Đó là mụ Lợn, đó là mẹ anh Hường, một người lấy lính Tây rồi bị nó ruồng bỏ, đó là bà mệ Chiểu thương cháu, nhớ nàng dâu trước đã chết mà không vui lòng lắm với nàng dâu kế... Cây bồ hòn đã nghe bao nhiêu tâm sự của bao nhiêu người, của bao nhiêu cuộc đời. Nó đã dần dần trở thành một nhân vật trong tuổi nhỏ của tôi, một chứng nhân bền bỉ trên dãy phố nghèo. Năm 1975, lúc mới giải phóng Huế tôi về thăm dãy phố Đông Ba, nhà cửa có đổi khác nhưng cây bồ hòn vẫn còn đứng đó. Những người từng gửi cho cây những lời cay đắng cũng không còn hoặc đã đổi đi nơi khác. Tôi có cầm một quả bồ hòn nếm thử, vẫn vị đắng ấy, vẫn mầu trong cánh gián ấy, vẫn dáng tròn như hòn bi ve ấy... Tôi như ngẩn người một lúc trước cây bồ hòn, vì bao nhiêu kỷ niệm ùa về trong tâm trí tôi. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà tôi nhắc đến cây bồ hòn khi bắt đầu viết về kỷ niệm những ngày tôi sống ở phố Đông Ba. Tôi đã sống giữa đám dân nghèo, chung đụng với họ trong một tình láng giềng thân thiết, gần như một thứ tình bà con ruột thịt. Đời họ có nhiều cái vui, nhiều lúc vui, và cũng có nhiều cay đắng. Có lẽ lớp năm tháng phủ dày trên kỷ niệm đã khiến tôi như thấy cay đắng nhiều hơn. Nhưng dù vui, dù buồn thì những cuộc đời của họ đều rất yên phận, đều trôi yên lặng như nước con sông đào Đông Ba êm lắng chảy về Sình... Nói chung là một phố nghèo, nhưng cũng có vài nhà khá giả. Đó là trường hợp ông Cả Soạn, gia đình buôn gỗ và buôn một vài thứ gì khác từ nông thôn chở về mà tôi không nhớ rõ.
Bản thân ông Cả Soạn không phải làm gì, tất cả việc buôn bán đều phó mặc cho vợ và con. Ông sống cuộc đời phong lưu, mà phong nhã. Ông đánh cờ rất cao và đàn rất hay, nhất là đàn nguyệt. Ông nổi tiếng là cờ cao (cờ tướng) khắp cả Huế và có thể nói là cả tỉnh Thừa Thiên. Nhiều người đánh cờ ở các huyện hâm mộ ông, cũng xin “đến hầu ông một vài nước cờ” và để “học ông vài nước ngựa, nước xe, có khi nước tốt nữa... mà họ nói vậy không phải là nói khách sáo đâu vì có lần khách cờ đến, sau mấy nước đầu, hai bên dàn trận, thì ông đi ngay một nước rất hiểm rồi ông nằm ngủ để cho đối phương loay hoay đi thử nước này đến nước khác. Đến lúc bạn cờ thức ông dậy thì ông lại đẩy con pháo hay con xe một cách nhẹ nhàng rồi lại xin ngủ tiếp. Cứ thế ván cờ kéo dài cả ngày. Ông mời khách cờ ăn cơm với ông khá thịnh soạn, rồi lại tiếp tục điều khiển trận cờ như là một vị tướng đã nắm chắc chiến lược, chiến thuật trong tay, không một chút hấp tấp, không một nước sơ hở. Sau cùng bạn cờ thưa với ông: “Xin cụ cho chúng tôi được thua.”
Ông Cả lại cũng đánh đàn rất hay, đàn tranh đàn bầu, đàn nguyệt. Đặc biệt tiếng đàn nguyệt của ông như thoát khỏi dây tơ, cần gõ, như từ không khí mà vang lên, như từ những ngón tay tài tử của ông toát ra khi hoà vui, khi nức nở. Ông đàn nhịp rất thong thả, những bài đàn Huế, nhất là bài Nam bình, có khi nghe từng tiếng một, như những giọt nước, như những giọt trăng rơi trên một mâm ngọc trong một ánh trời trong vắt. Có lẽ anh Xuân Diệu đã nhớ đến những tiếng đàn như thế mà viết lên bài "Nguyệt cầm":
Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh
Trăng thương trăng nhớ hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
Ông thường đàn vào đêm khuya, lúc phố đã yên lặng, tưởng như ông cần sự thanh khiết của không gian cho tiếng đàn của ông được toả đi, cho giữa tiếng đàn và ông không còn sự cản trở của một tạp âm nào nữa.
Tôi không biết ngày xưa lúc Bá Nha đàn cho Chung Tử Kỳ nghe thì tư thế ngồi đàn như thế nào, và tôi cũng không biết ông Cả Soạn có bạn tri âm nào không nhưng thái độ trân trọng của ông khi nâng chiếc đàn khi đưa mấy ngón tay vê vào dây tơ, mà tôi đã được ghé mắt nhìn trộm thì quả thật là phong cách của một bậc tài tử, tri âm tri kỷ ngay với chiếc đàn của mình với cái nghệ thuật âm thanh mà ông cho là linh hồn của người và của trời đất. Đêm khuya thanh vắng tiếng đàn của ông Cả Soạn có phải là linh hồn của dãy phố nghèo hay không, mà những người láng giềng của ông nghe từng tiếng một, cho đến khi tiếng đàn mờ dần, “rơi tàn” vào lòng đêm thắm, cho đến khi tiếng đàn của ông cũng ngủ theo giấc ngủ của mọi người.
Ông là người có thật, đã sống thật, mà tôi cứ nhớ đến ông như nhớ một nhân vật huyền thoại.
Phố Đông Ba của tôi ngày bé
Có ông Cả Soạn, đánh cờ cao
Lắm khi một buổi đi vài nước
Để bạn bè vây nghĩ nát đầu.
Ông lại đàn hay. Nguyệt tiếng tơ
Hồn ve dắng dỏi dưới trăng mờ
Ngón tay tài tử năm cung nhấn
Nghe cả trời thu nức nở mưa...
Tôi hãy nhắc luôn một người khá giả nữa ở phố Đông Ba là chú Xối, người Hoa kiều lấy vợ Việt Nam.
Thím Xối cũng buôn bán hàng nông sản, lạc, vừng một ít hàng tơ lụa, và thím cũng có một cửa hàng xén ngay ở phòng trước nhà mình. Hai vợ chồng chú Xối sống rất hoà thuận và cũng ăn ở hoà thuận với mọi người xung quanh, được láng giềng cảm mến. Chú Xối cũng giống ông Cả Soạn ở chỗ phong lưu, không phải làm lụng buôn bán gì, mọi việc kinh doanh và việc gia đình đều phó mặc cho bà vợ Việt Nam. Nếu chú không có cái phong nhã của ông Cả thì chú cũng được cái phong cách thảnh thơi, thư thái. Tôi nhớ rất rõ chú người hơi thấp béo nhưng không bệu, bận cái áo kiểu Hoa kiều tay rộng với hàng cúc vải trước ngực, nét mặt luôn luôn tươi cười, dáng dấp hoà nhã. Tôi nhớ mùa đông cũng như mùa hè, ngày tết hay ngày thường cũng thế, chú luôn luôn có sẵn hạt dưa đỏ trong túi và luôn luôn thong thả cắn ăn hạt dưa; hạt dưa đối với chú là đầu câu chuyện, cũng như đối với người khác là miếng trầu hay điếu thuốc.
À mà chú cũng ăn trầu, trầu quệt rất nhiều vôi và lúc ăn trầu mặt chú vốn đã hồng hào lại đỏ thắm thêm, nhìn rất cảm tình. Khi có những chuyện xích mích xảy ra giữa những người hàng xóm, thì thím Xối hay bảo chồng “có vài lời góp với bà con cho êm thấm”. Chú Xối thong thả đến giữa cuộc cãi cọ, có khi là cuộc đấu khẩu gay gắt, miệng vẫn ăn hạt dưa tươi cười nói: “Pà con cả mà, pà con cả mà? Có gì thì vào nhà nói chuyện nhỏ với nhau, nếu pà con không muốn về nhà mình, thì xin mời vào nhà tôi uống nước và nói chuyện”. Thế mà thường thường các chuyện cãi cọ được kết thúc nếu không được thật êm đẹp, thì cũng im tiếng. Chú Xối nghiễm nhiên trở thành một ông trọng tài hay ít nhất cũng là một người phất cờ biên trong cái phố nhỏ của tôi.
Bây giờ tôi xin nhắc đến những người vất vả những người nghèo, láng giềng của tôi. Sát bên cạnh căn nhà của cậu tôi có gia đình ông Lạng. Thím Lạng hàng ngày đến lò sát sinh cách nhà chừng 300 thước mua huyết bò về phơi khô để bán cho những người nhuộm lưới và cho những người chế biến thuốc nhuộm (tôi nghe nói thế, còn chế biến thế nào tôi đâu có biết). Huyết bò lúc gần khô thì xông lên một mùi hôi khá nồng nặc, chúng tôi ở bên cạnh khi đầu không chịu được, nhưng sau cũng quen dần. Vả lại vợ chồng ông Lạng cũng tìm cách che kín được chừng nào hay chừng ấy cái khoảng sân xi măng dùng để phơi huyết.
Ông Lạng làm chuồng chim, một tháng vài lấn mang ra chợ Đông Ba, hoặc chợ Gia Hội để bán, mùa nào hơi ế thì gánh đi bán rong. Nhưng thường là khách nuôi chim đến đặt hàng tại nhà ông và cứ thế đúng ngày hẹn là khách đến lấy chuồng, không chê bai gì vì chuồng chim ông làm rất đẹp. Có thể nói ông làm chuồng chim để bán, nhưng làm một cách khá say mê tỉ mỉ, trau chuốt, nghĩa là với “máu mê” nghệ thuật.
Tôi đã từng hàng giờ đứng trông ông khoan, đục những mẩu tre nhỏ, những khúc mây trắng ngà và vót những nan tre thật tròn, thật trơn để làm chuồng chim.
Chuồng ông làm đủ cỡ và đủ kiểu: để nuôi chim bầy thì lồng chim to và vuông, để nuôi một con chim sâu hay một con chim vàng anh, hay một con vẹt thì có lồng chim nhỏ, tròn, mái lồng uốn cong như nóc những ngôi lầu cổ. Chính ông Lạng cũng nuôi vài con chim trong nhà trong hai cái lồng con. Có lần có người khách thấy chim đẹp lại có tiếng hót, muốn mua cả lồng lẫn chim. Ông Lạng cười và nói: “Thưa ông, tôi chỉ bán lồng, còn chim thì phải ở lại với tôi cho vui nhà”. Người khách chắc là cảm phục người thợ làm lồng chim nên nói tiếp: “Vậy thì khi nào ông gặp một đôi chim cũng hay hay như đôi chim này ông mua giùm cho tôi, và bây giờ xin gửi ông tiền trước”. Ông Lạng cười: “Gặp chim tôi sẽ mua giùm ông, nhưng tiền thì ông khoan đưa, vì cá nước chim trời biết khi nào bắt được mà dám hẹn”. Ông Lạng láng giềng của tôi là như thế đó. Ông lại còn tài đàn bầu, mà không biết sao ông thường gảy lên những bài não nuột.
Ông Lạng làm chuồng chim bán rong
Suốt ngày khoan đục giữa mây song
Đàn bầu một chiếc khi tiêu khiển.
Vừa gảy vừa ca thật não nùng.
Tiếp theo tiếng đàn bầu của ông Lạng là tiếng đàn tranh và đàn nguyệt của anh Cháu. Anh Cháu ở căn nhà cuối dãy, cách căn nhà cậu tôi hơn 100 thước anh làm nghề đàn chầu văn, và cũng có khi đi đàn hầu đò, tức là xuống đò dạo sông Hương đàn cho những khách làng chơi, hoặc những khách trong Nam ngoài Bắc ghé Huế vài hôm để thường thức cái thú chơi đò trên sông Hương. Đi chầu văn thì anh đàn nguyệt, nhưng đi hầu đò thì anh mang cả đàn tranh đi theo, lúc nguyệt lúc tranh, tiếng đàn thánh thót giữa trăng nước đêm khuya. Anh Cháu mù một mắt, mà nhìn anh người ta không có cảm giác là anh chột, vì miệng anh tươi cười và có lẽ cũng vì người ta chăm chú vào tiếng đàn rất nội tâm của anh, và có lúc anh đàn thì đầu anh nghiêng nghiêng xuống như để thỏ thẻ cùng dây đàn, cùng tiếng đàn. Cậu Vân tôi cũng đã nhờ anh dạy đàn nguyệt cho và tối thứ bảy, tối chủ nhật nếu anh không bận đi hầu cúng hay hầu đò thì anh đến hoà đàn với cậu tôi. Tôi không nhớ rõ là anh có vợ con không, chỉ biết anh ở cùng nhà với anh trai và chị dâu bán chả tôm và bún bò. Trong kỷ niệm của tôi anh Cháu là người nghệ sĩ đánh đàn, nghèo mà rất tài tứ, vui một cách âm thầm:
Anh Cháu đàn tranh mù một mắt
Khi thì hầu cúng, khi hầu đò
Hồn anh là mảng trăng khuya khoắt
Một nửa đen sầm, nửa ánh mơ.
Cậu tôi học đàn nguyệt với anh Cháu mấy năm trời, nhưng tiếng đàn vẫn không có nhuỵ bằng tiếng đàn của anh. Có lúc anh Cháu nói với cậu tôi “tiếng đàn của ông còn thật quá”. Lúc đó tôi không hiểu lời nhận xét này, bây giờ thì may ra tôi cảm nhận được ý sâu của anh “Cháu đờn”, như mợ tôi thường gọi anh.
Tiếng đàn của ông Cả Soạn, của anh Cháu là tiếng đàn thanh tao, còn như tiếng đàn của chú Kình thì lanh tanh vui nhộn, hoặc không vui nhộn thì cũng là tiếng đàn khuây khoả qua quít trong chốc lát. Chú Kình là thợ cúp tóc, mắt trái cũng bị mây kéo mờ đi nhưng mắt phải thì rất lanh lợi, mà cái nhìn rất tinh nghịch, có khi như soi mói nữa. Chú Kình và người anh là chú Kiên mở phòng cúp tóc phía trước hiên gần nhà ông Cả Soạn. Hai anh em thay nhau cúp tóc kiếm đủ ăn, và những lúc rỗi thì chú Kình đàn cái đàn đoản (tức là đàn tam), gọi là đàn đoản vì cái cần đàn rất ngắn.
Chẳng được phong lưu như bác Cả
Chú Kình cúp tóc cũng đàn khua
Lanh tanh đàn đoản cần trun cổ
Như chú Kình hay rụt cổ rùa.
Chú Kình cũng hay đánh cờ tướng, và có lúc rủ bọn tôi sang đánh với chú cho đỡ buồn. Bộ quân cờ của chú bằng sừng, mỗi lúc đến phòng cúp tóc (vì chú ở xa dưới xóm Mang Cá) thì chú mang quân cờ bỏ trong một túi vải treo đầu cần đàn đoản. Cứ thế chú ung dung tới trước cái bàn cúp tóc và treo đàn và cờ lên phía trên gương. Thật là thú cầm kỳ của một đời nghèo mà thanh thú.
Trong giới âm nhạc dân gian của tôi còn ông Xẩm chợ mù hai mắt cứ mỗi chiều chủ nhật lại đến trước cửa trường tôi học, dạo vài tiếng đàn bầu và kể vè Kinh đô thất thủ. Có hai con nhỏ dắt ông đi, và ngửa nón xin tiền mỗi khi ông kể xong một đoạn vè. Vè “kinh đô thất thủ” ai nấy đều thuộc, nhưng mỗi lần ông kể người ta lại xúm quanh ông để nghe, cốt để nghe giọng ông kể hơn là những chuyện xảy ra trong bài vè mà người ta đã nhớ. Mà giọng ông kể thì thống thiết, não nùng, có khi như uất nghẹn. Chắc rằng ông “sống” với những câu vè ông kể, mà những người nghe cũng “sống” với ông cái cảnh nước mất nhà tan. Sự đồng cảm ấy làm nên những buổi chiều xúc động, da diết:
Cuối phố gốc cây, chiều chủ nhật
Là ông xẩm chợ với hai con
“Kinh đô thất thủ” vè quen thuộc
Lớn, nhỏ ngồi nghe nặng trĩu hồn.
Những người nghệ sĩ dân gian ấy đã cho tôi cái mê say nghệ thuật, cũng như tủ sách của ông cậu tôi đã mở cửa cho tôi vào thế giới kỳ diệu của văn thơ.
Tôi vẫn thường nói với anh Xuân Diệu: “Mình biết ơn vô kể những người láng giềng tuổi nhỏ ở phố Đông Ba. Vốn đẹp của quê nhà, hồn đẹp của cha ông, chính những người ấy, những nghệ sĩ nghèo ấy đã mớm cho mình từ tấm bé”.
Ấy phố Đông Ba nghèo ảm đạm
Chút vui nghệ thuật cũng bồi hồi
Bốn lăm năm trước đời u ám
Trời nghẹn hoàng hôn trên phố tôi.
(Trích bài thơ “Phố Đông Ba của tôi ngày bé”, 1972)
XÓM MANG CÁ
Từ trường học Queignec của tôi đi xuôi về Sình, qua cầu Thanh Long, là đến xóm Mang Cá, ở gần đồn Mang Cá. Đồn Mang Cá lúc đó là do lính Pháp và lính khố đỏ đóng, vì đây là một vị trí quân sự quan trọng, chính quyền thực dân không muốn giao cho lính khố xanh đóng, mà họ gọi là đội lính bản xứ (garde indigène). Đồn Mang Cá xưa kia, lúc Pháp mới sang, là nơi đã xảy ra cuộc chiến đấu ác liệt của nhà yêu nước Tôn Thất Thuyết chống cự (một cách tuyệt vọng nhưng rất anh hùng) bọn giặc Pháp lúc đó muốn củng cố nền đô hộ chưa ổn định của chúng. Xóm Mang Cá những năm 30 của thế kỷ là xóm của những người vợ lính Tây, cả Tây trắng và Tây đen (từ “tây đen” là chỉ những người lính châu Phi da đen ở trong quân đội Pháp). Một vài người bạn học cùng lớp với tôi (như bạn Côn, bạn Bảo) nhà ở dưới đó, có rủ tôi đi chơi ở xóm Mang Cá. Đó là những ngôi nhà tranh vách toócsi (đất nhồi rơm, có khi cả với phân trâu khô) sạch sẽ, trong mỗi nhà là gia đình của một anh lính. Các chị vợ Tây này có người có con, nhiều nhất là vài đứa, có người không có con. Lính Tây chỉ được sống với vợ con tối thứ bẩy và ngày chủ nhật trừ những anh cai hay đội thì thỉnh thoảng cũng được về nhà vài đêm “bổ sung”.
Các chị vợ lính Tây thường nhàn rỗi, vì đã có tiền của anh chồng bao, chỉ đi chợ mua thức ăn, lo bếp núc, nhất là thứ bẩy và chủ nhật: Còn ngày giờ rỗi thì các chị đánh tứ sắc, hay là đánh chắn.
Tôi còn nhỏ (10 tuổi), nhưng tại sao tôi có cảm giác các chị sống một cuộc đời dường như ngơ ngác, như giả tạo, và trên nét mặt của các chị tôi thấy một nỗi buồn phảng phất, kể cả những khi các chị vui đùa. Có những anh lính Tây cũng thương vợ thật, đằm thắm nữa là khác, và lúc về Tây, không đem vợ theo được, thì để lại cho vợ một số tiền khá lớn, và sắm sửa cho vợ đủ thứ bàn ghế, giường màn, rương tủ, cả chậu cảnh nữa, về đến Pháp hay châu Phi còn gởi thư sang, giọng đầy tình nghĩa. Nhưng cũng có những chị bị chồng Tây hành hạ, đánh đập như một người nô lệ, mà nó đánh thì không ai dám đến can. Số phận con người “me Tây” tuỳ may, tuỳ rủi. Nói số phận “me Tây”, tôi lại nhớ đến mẹ anh Hường cùng học lớp với tôi. Mẹ anh hai đời lấy Tây, chồng trước là một anh Tây trắng đối xử với bà rất tàn tệ, thậm chí có lúc giam đói bà cả ngày chủ nhật vì cách chiều chuộng mơn trớn của bà không vừa ý nó. Đến lúc về Tây, nó chỉ thí cho bà được vài chục đồng bạc, và chẳng có thư từ hỏi han gì. Nhưng đời sau là một anh Tây đen, người Xênêgan, “đen như cột nhà cháy”, cao lêu nghêu nhưng rất hiền. Anh chồng này chiều chuộng bà đủ cách, muốn may áo là may áo muốn sắm giường là có giường, và không khi nào anh to tiếng với bà. Người cao to như ông hộ pháp mà giọng nói lại nhỏ nhẹ, tiếng Pháp bồi, đủ để trao đổi ý kiến về sinh hoạt hàng ngày, và để trao đổi những tình cảm cơ bản... Đến lúc anh này về nước, anh để lại không những một số tiền to, mà còn cả những thứ anh sắm mấy năm trời khi anh đóng ở trại Mang Cá. Ra về anh khóc sướt mướt, hai vợ chồng tiễn nhau đến Cửa Hàn tức là Đà Nẵng ngày nay, và còn cái đồng hồ nơi tay anh cũng cho vợ nốt. Anh Hường là con đời chồng Việt Nam của bà, đã chết trước khi bà lấy Tây. Bà rất thương anh Hường, và anh Hường cũng rất thương dượng Tây đen của anh. Hai đời chồng Tây không cho bà một đứa con nào, trắng cũng không mà đen cũng không.
Năm 1975 sau khi Huế giải phóng, tôi về thăm Huế, và đạp xe đạp xuống thăm xóm Mang Cá. Cảnh đã khác xưa, có nhiều nhà ngói xây thời Mỹ ngụy, thay những nhà tranh vách toócsi xưa kia. Những bà vợ “me Tây” đã phiêu bạt đi đâu và cái cảnh ngơ ngác của các bà cũng không còn nữa. “Vang bóng một thời” Tây, tôi xin ghi vài nét trên đây làm chứng liệu. Tôi sẽ trở lại các chị “me Tây”, khi nói đến cái lớp học tiểu học dành cho bọn trẻ Tây lai trong trường trung học Quốc Học...
EM BÉ BÁN LẠC RANG VÀ BÁN BÁO
Năm tôi học đệ tam niên thành chung, một sáng chủ nhật, ở trường xa, tôi ngồi chơi ở vườn hoa bên bờ sông Hương, gần hãng buôn Morin, tôi gặp một em bé bán lạc rang và bán báo, mặt khôi ngô, lanh lợi. Tôi hỏi em: “Chủ nhật em bán báo và đậu phụng, thế ngày thường em đi học ở trường nào?”. Thấy tôi hỏi em bé có vẻ ngượng nghịu, xấu hổ. Tôi lặp lại câu hỏi thì em nói: “Thưa anh, em không được đi học, em chưa biết đọc biết viết.... Tôi hỏi: “Thế làm sao em bán báo được, biết tờ nào là báo gì mà đưa cho khách?” - “Em thuộc mặt các tờ báo, chỉ có ba bốn tờ thôi, cả báo ở Huế, cả báo Hà Nội, làm gì là em không thuộc...
Rồi em kể cho tôi nghe: Bố mẹ em đã chết bệnh, vì nghèo quá không đủ thuốc thang. Và em được một người cô nuôi, người cô cũng nghèo, buôn thúng bán mẹt ở Gia Hội, chỉ có thể cưu mang nuôi cháu ngày hai bữa cơm cháo, không đủ sức nuôi cháu ăn học. Em đành phải đi bán đậu phụng rang và bán báo, kiếm được đồng nào thì về đưa cô, và cô cũng cho lại em mỗi tuần một hào để ăn quà sáng. Em rất thương cô thấy cô nghèo quá, có tuần em không nỡ lấy hào bạc cô cho... Em ứa nước mắt, chào tôi định đi. Tôi gọi em trở lại, và bảo em: “Thế em có muốn học chữ quốc ngữ không?”. Em hỏi: “Muốn lắm, nhưng bằng cách nào?” - “Anh sẽ dạy em, mỗi sáng chủ nhật, đúng 8 giờ, em cứ đến đây, ở ghế vườn hoa này, anh ở trường ra, anh sẽ dạy cho em một tiếng đồng hồ, cứ đều đặn như thế thì mấy tháng là em biết đọc, biết viết được. Anh sẽ mua chữ quốc ngữ cho em và cho em cả vở và bút....
Thế rồi, mỗi sáng chủ nhật, ở trường ra tôi đến chỗ hẹn chờ em bé, có lúc em đến chậm một chút, nhưng thường là em đến trước tôi, chờ tôi. Cũng có lần tôi ra chậm, và em vẫn chờ. Em thông minh, tôi dạy em cũng tỉ mỉ nên chỉ sau mấy chủ nhật là em đọc được đọc ngay hẳn vào chữ in. Chỉ có bày cho em viết tập là hơi khó, vì không có bàn, chỉ có bút chì viết trên vở, kê vào đầu gối mà viết. Tuy nhiên, về nhà em kiên nhẫn đồ theo những trang tôi viết bút chì rồi em cũng thuộc mặt chữ và viết được. Lúc đầu còn nguệch ngoạc, sau chữ cũng đứng nét dần, và viết đều đặn.
Tôi nhớ gần nghỉ hè, khoảng tháng 3 hoặc tháng 4 -1935, thì em đã biết đọc biết viết hẳn hòi, và có hôm chủ nhật tôi ở trường ra thì đã thấy em ngồi trên ghế đá vườn hoa, cầm tờ báo Phong hoá đang đọc. Tôi mừng thầm đã thành công trong việc giúp em, đem lại chữ quốc ngữ cho em. Tôi định nói với em là từ tuần sau tôi không còn phải dạy em nữa, và tôi cũng bận thi học kỳ, và chào tạm biệt em. Tôi thấy em lúng túng, như muốn nói điều gì đó với tôi... Sau cùng em rút ở trong tờ báo ra một mẩu giấy, thì đó là bức thư em viết cho tôi, tỏ lòng biết ơn tôi đã dạy em biết chữ. “Cô em nói với em: “Cháu đã gặp bụt bày chữ cho cháu đó”. Em nói với cô: Anh học trò ấy còn trẻ lắm thì cô em nói: bụt thương cháu nên xui anh ấy bày cháu học. Thưa anh, em biết ơn anh, hứa làm ăn thật tử tế khỏi phụ lòng anh.... Tôi quên không nhớ rõ tên em bé, không biết có phải là Quang, hay là Trang...
Lúc gần nghỉ hè, một sáng chủ nhật, tôi lại gặp em rao bán báo và đậu phụng; hai anh em gặp nhau, cảm động em đưa tôi một gói đậu phụng, tôi lấy tiền giả em nhất định không lấy, tôi phải cầm gói đậu phụng bỏ túi cho em vui lòng, và anh em từ giã nhau, hai đứa đều rơm rớm nước mắt. Đó là lần cuối cùng tôi gặp em bé bán báo và đậu phụng rang, người học trò nhỏ của tôi. Sau này, tiếp xúc với phong trào truyền bá quốc ngữ ở Hà Nội, tôi lại nhớ đến cậu học sinh vườn hoa. Và bây giờ, thỉnh thoảng bàn vấn đề xoá nạn mù chữ trên thế giới trong hội đồng chấp hành UNESCO tôi lại nhớ những sáng chủ nhật ở vườn hoa bên bờ sông Hương kiên nhẫn dạy đứa em của tôi...
DIỄN KỊCH TẠI NHÀ
Hè 1936, sau khi đậu bằng thành chung, các anh Nguyễn Xuân Tám, Nguyễn Xuân Sanh và tôi lại cùng nhau ở lại Huế, mấy tuần đầu ở trọ tại một nhà ở xóm An Cựu, gần cầu và chợ An Cựu. Nhà ngói trệt có vườn xanh mát, có sân gạch, có bể cạn chứa nước mưa bên gốc mấy cây cau. Nhà chỉ có hai vợ chồng không có trẻ con, ông chồng làm một chức gì trong hàng nho lại trong thành Huế, bà vợ trạc gần 40 tuổi ở nhà, cũng không hẳn làm nội trợ, mà rảnh rỗi thời gian, khi đi đánh bài, đánh chắn hay đánh tứ sắc, khi thì ra chợ kề cà chuyện trò hết buổi. Chúng tôi không thấy bà lo cơm nước, nhưng đến bữa vẫn có được bữa cơm tươm tất, thì ra bà nhờ một người ở của nhà láng giềng giúp bà việc bếp núc. Thế rồi một hôm, không biết hai vợ chồng cãi cọ nhau thế nào, mà sáng hôm sau chúng tôi thấy bà đã cạo trọc đầu như một bà vãi ở chùa. Chúng tôi thấy ái ngại, không dám hỏi chuyện sợ chạm vào một tâm sự cay đắng, não nùng... Bà chủ động nói trước: “Tôi có chuyện buồn riêng nhưng các anh cứ tự nhiên, ở lại nhà tôi cho đến hết nghỉ hè cho vui, đến tựu trường các anh muốn ở lại nữa cũng được”. Nói xong, bà ngồi yên, mặt hơi cúi xuống, như trầm ngâm lắng suy nghĩ vào bên trong. Rồi bà lấy sách ra đọc lấy báo thì đúng hơn, đó là vài tập Tiểu thuyết thứ bảy, vài quyển truyện của Lê Văn Trương, và một số tiểu thuyết của nhà xuất bản Tân Dân. Hình như có cả vài tập truyện Tàu nữa, và mấy tập truyện trinh thám của Phạm Cao Củng. Là một tâm hồn bị dày vò bởi những ham muốn không thoả mãn được hay là một nỗi lòng bất đắc chí của một người có hoài bão nấu nung? Ba chúng tôi cứ ngồi đoán hiểu tâm hồn uẩn khúc của bà chủ nhà.
Có một tối ba chúng tôi cao hứng muốn diễn kịch, mà không có kịch bản tiếng Việt Nam trong tay. Chúng tôi bèn vạch qua vài nét trong câu chuyện, rồi cứ thế sáng tạo tại chỗ những lời đối đáp sáng tạo cả nội tâm nhân vật nữa, như ta nói ngày nay là diễn một vở kịch cương. Anh Tám đóng vai một ông chủ nhà, anh Xuân Sanh đóng vai bà chủ nhà, còn tôi đóng vai một người khách lạ đến chơi. Ông chủ nhà (là anh Tám) rất sợ vợ, mà lại hay ghen, lại có lối suy nghĩ của một người trí thức hay phân tích tâm lý, ông khách lạ (là tôi) thì tính hay bông đùa, dễ bắt chuyện, nhưng cũng che dưới tính bông đùa một trái tim dễ xúc động, tha thiết, nhạy cảm... Bà vợ (là anh Sanh) thì tâm hồn lãng mạn không hẳn là chê chồng nhưng cũng thấy lòng mình không được thoả mãn trong đời sống vợ chồng hàng ngày. Tính cách nhân vật là như vậy, nhưng làm thế nào cho có câu chuyện dẫn dắt, hấp dẫn... Sáng tạo lời đối với chúng tôi không khó lắm, nhưng sáng tạo hoàn cảnh thì mặc dù đã học bao nhiêu vở kịch cổ điển và lãng mạn của văn học Pháp, chúng tôi vẫn loay hoay không bày ra được tình huống. Chúng tôi đang diễn, đang sáng tạo thì đột nhiên bà chủ nhà ở trong buồng đi thẳng ra giữa phòng lớn, nơi chúng tôi đang biến thành sân khấu: “Các anh cho tôi chơi kịch với cho vui. Anh Sanh không phải đàn bà, làm sao mà diễn vai bà chủ nhà được, đó là vai của tôi”. Rồi bà chủ tự đặt ra lời, diễn rất hoạt bát, rất nội tâm vai bà chủ mơ mộng, trách chồng mà không hắt hủi chồng có khía cạnh thương hại chồng, và niềm nớ tiếp người khách lạ, nói với người khách lạ những câu đầy ý tứ mà vẫn nghiêm trang, lịch sự... Tôi đứng nghe lấy làm thích thú, bị thu hút bởi tài diễn kịch, tài ứng khẩu của bà chủ nhà, quên bẵng rằng mình đang đóng vai người khách lạ... Bà chủ nhìn tôi nói: “Ô ông khách! Ông nói đi chứ? ông có cần tôi nhắc lại những điều tôi vừa nói với ông để ông trả lời?”. Tôi luống cuống không biết trả lời bà chủ, hay trả lời nhân vật... thì bà nói: “Ông cứ nói đi, trả lời tôi là bà chủ nhà, hay là bà chủ trong kịch bản cũng được... Tôi nhập cả hai vai”. Cả ba chúng tôi ngừng vở kịch ở đó, và ngồi nói chuyện với bà chủ có nhiều tâm sự, đầu đã cạo trọc như người đi tu, mà lòng đời còn lắm nỗi xao xuyến.
Sau đó một tuần chúng tôi dọn đi một nhà trọ khác gần trường Providence. Thỉnh thoảng, tôi và anh Sanh có trở lại thăm bà chủ nhà An Cựu; tóc bà đã mọc dài trở lại, chải rất mượt, thơm mát mùi dầu dừa...: “Các anh có diễn kịch nữa không, cho tôi chơi kịch với”.
Tiếc rằng, cả anh Tám, anh Sanh và tôi không người nào đi vào con đường sáng tác kịch bản, hoạt động sân khấu, nếu không thì chúng tôi đã mời bà chủ nhà An Cựu tham gia đóng vai, ít nhất là đóng vai bà chủ nhà mơ mộng và có nỗi lòng xao xuyến...
H.C - X.D.
(SH23/01-87)