NGUYỄN KHẮC PHÊ
Trong lịch sử xây dựng tổ chức văn nghệ trên đất Cố đô Huế 70 năm qua, nơi ghi dấu nhiều sự kiện, nhiều kỷ niệm nhất hẳn là ngôi nhà 26 Lê Lợi, bên bờ nam sông Hương.
Với tôi, cũng như với nhiều văn nghệ sĩ khác, gần 40 năm qua, dù chỗ ở phải thay đổi mấy lần, dù thủ trưởng cơ quan cùng các “ban bệ” nhiều phen “vào ra” theo nhiệm kỳ, ngôi nhà 26 Lê Lợi vẫn là địa chỉ “nằm lòng” duy nhất, không ghi cũng nhớ, là nơi “xuất phát” của vô vàn những hoạt động văn nghệ phong phú, là nơi chứng kiến những cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ không chỉ trong tỉnh mà khắp cả nước và bạn bè quốc tế. Không thiếu những cuộc gặp gỡ “hoành tráng”, nhưng với tôi, cuộc gặp đầu tiên với một số văn nghệ sĩ ở Huế, tuy rất đơn sơ, nhưng cũng đáng nhớ.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng sinh tại Huế và gia đình có nhiều gắn bó với đất Cố đô, nên khi nghe tin Huế được giải phóng, từ cơ quan Hội Văn nghệ Quảng Bình đóng tại xóm Phú Vinh ngoại ô thị xã Đồng Hới, chúng tôi chỉ trông chờ được phép phóng xe… đạp qua cầu Hiền Lương vô Huế. Tuy vậy, do cách quản lý cán bộ văn nghệ của một tỉnh lẻ, chỉ hai nữ sĩ có gan như Lê Thị Mây và Dương Thu Hương liều vượt giới tuyến khi tỉnh chưa cho phép nên về bị “kiểm điểm” vì tội quá… hăng hái “đi thực tế”; còn tôi vốn là người tôn trọng quyết định của “tổ chức”, mãi đến giữa tháng 5/1976, mới được vô Huế gặp bạn bè văn nghệ phía Nam, chuẩn bị cho việc thành lập Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên. Xin trích vài dòng Nhật ký ngày “hội ngộ” đầu tiên vui vẻ đó.
* Ngày 31/5/1976
Hơn nửa tháng nay loay hoay với việc chuyển cơ quan. Đi Huế từ 18/5 đến 26/5. Quá Quảng Trị, xe phải đi vòng, qua Diên Sanh, cảnh mái tôn san sát xám trắng giữa vùng cát nắng, trông thật dễ sợ. Một bác nông dân Quảng Bình vào thăm người thân ở Huế, ngồi cùng xe, thốt kêu lên: “Họ ở thế, lấy chi mà ăn?!”
Đến Hội Văn nghệ, ở lại trong căn nhà hầm 26 Lê Lợi. Trời nóng, khô rang. May là lần này nhớ đem theo bi đông, nên khỏi khát nước. Vừa đến, nhập cuộc được với các “nghệ sĩ” Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Nhuận Vỹ…, góp tiền mừng ngày sinh cụ Trần (?), cũng là cái cớ nhậu nhẹt. Mình đem một bao thuốc “Điện Biên”, Hoàng Phủ và Trịnh Công Sơn liền ra quán đổi lấy một bao “Nông”, hút đậm hơn, lại còn lãi 6 hào! Không ngờ các vị nghệ sĩ mà cũng cụ thể như thế. Trịnh Công Sơn cởi trần, chuyện cởi mở, uống rượu nhắm thức ăn, chứ hầu như không ăn cơm; vừa ăn uống, vừa hút thuốc. Trịnh Công Sơn bảo: Trước còn hai tay hai điếu!...
Sau chuyến đi “tiền trạm” này, ngày 11/6/1976, mấy anh chị em cán bộ Hội Văn nghệ Quảng Bình mới chính thức rời xóm Phú Vinh (ngoại o Đồng Hới) vào Huế.
Thời gian đầu, hầu hết anh chị em mới vào đều tạm trú dưới tầng hầm ẩm thấp, chật hẹp tại Trụ sở Hội 26 Lê Lợi. Riêng “thủ trưởng” Lương An từ Quảng Trị vào, được ở phòng trên gác; về sau, khi anh Lương An được điều qua Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, anh Mai Văn Tấn, nguyên là sĩ quan biên phòng, tác giả của bộ sách “Truyện cổ Vân Kiều” rất được hâm mộ, về Hội làm Thường trực, đã ở căn phòng đó. Còn các phòng ở tầng hầm được chia cho các “nhân viên”: Nguyễn Thị Kim, Vương Hồng Hoan, Vĩnh Nguyên, Lê Thị Mây…; vợ con tôi xin chuyển vào Huế từ ngày 28/8, cũng được ở trong một căn phòng vuông, có thể gọi là “mặt tiền” của tầng hầm này; ít năm sau thì có thêm nhà văn Hồng Nhu ở Vinh chuyển vào. Cái thế giới “tập thể” chung một nhà tắm, một nhà cầu này đã nẩy sinh vô số chuyện khôi hài về những cuộc “chạm trán” ngoạn mục… Nhưng thôi, để các bạn tưởng tượng ra, có khi lại phong phú hơn!
Kể từ những ngày đó cho đến lúc tôi rời Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế về nghỉ hưu là hơn hai chục năm. Nếu kể 2 năm ở Hội Văn nghệ Quảng Bình thì tôi làm anh công chức văn nghệ tròn 25 năm (1974 - 1999). 25 năm - một quãng thời gian đủ dài để có những kỷ niệm không thể quên. Hẳn là trong dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Hội, sẽ có nhiều anh chị nhắc lại. Tôi chỉ xin kể lại mấy chuyện “đi thực tế”, một hoạt động thường xuyên và khá quan trọng của Hội, vì nó tạo điều kiện, gây men để có những tác phẩm mới - công việc chủ yếu của mọi tổ chức văn nghệ. Vài kỷ niệm và bài học riêng, biết đâu cũng có lợi chút ít cho công việc tổ chức “đi thực tế” cũng như quá trình lao động để có tác phẩm từ những “người thật việc thật” mình đã chứng kiến.
Các nhà văn đi thực tế Cao Bằng, thăm “Suối Lê Nin” - 2012 |
Trước khi nói chuyện của riêng mình, có lẽ cũng nên bàn qua về cái gọi là “đi thực tế” - theo như tôi hiểu thì chỉ mới xuất hiện từ khi có phong trào văn nghệ cách mạng, có tổ chức quản lý, lãnh đạo văn nghệ sĩ, với mục đích là lôi kéo những văn nghệ sĩ chỉ thích “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” về sống với cuộc sống của nhân dân.
Hình như cũng có người cho rằng đây là chủ trương khá tốn kém và không hiệu quả, vì tác phẩm được sáng tạo từ trải nghiệm máu thịt, từ con tim, khối óc của mỗi văn nghệ sĩ, chứ đâu phải qua mấy ngày “đi xem” nông dân gặt lúa, công nhân bên lò nung…, về nhà tả lại là xong! Suy nghĩ một cách bình tĩnh thì ý kiến loại này không hoàn toàn là “vớ vẩn”, nhất là với những cuộc “đi thực tế” theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”, một kiểu du lịch trá hình, chỉ tốn tiền bạc của công quỹ; và nếu chúng ta thử đặt câu hỏi: Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng có ai tổ chức “đi thực tế” đâu mà vẫn có tiểu thuyết “Tắt đèn”, “Số đỏ”…; rồi tác phẩm khoa học viễn tưởng thì “đi thực tế” ở đâu?
Tuy vậy, theo góc nhìn của tôi, thì chủ trương “đi thực tế” vẫn có ích đối với người sáng tác, miễn là việc đó không bị dẫn dắt bởi quan niệm thô thiển là “thấy gì viết nấy” mô tả y xì hiện thực, càng không thể theo kiểu chỉ đi “săn” nhân tố mới, “người tốt việc tốt”, “tô hồng” hiện thực. Vì đơn giản, trách nhiệm nhà văn và đặc thù nghề văn khác với báo chí và cán bộ tuyên huấn; hơn thế, như chúng ta đều biết, hầu hết những tác phẩm lớn của nhân loại đều thể hiện những số phận bất hạnh, những nỗi đau nhân thế.
Với nhận thức như thế, thì chính những chuyến “đi thực tế” sẽ giúp nhà văn hiểu biết cuộc sống nhân dân sâu sắc hơn, thấm thía những nỗi đau nhân thế và nhiều khi những cảnh đời ta tình cờ bắt gặp hay nghe kể lại, sẽ làm nẩy những tứ thơ, gợi ra cả một “tình huống truyện” độc đáo. Có thể nói, đó là “bột” để “gột nên hồ” là tác phẩm văn chương. Một số tác phẩm của tôi đã hình thành theo “con đường” ấy.
Đó là tiểu thuyết Những cánh cửa đã mở dày gần 600 trang, xuất bản lần đầu năm 1986 (Nxb. Thuận Hóa), năm 2006, được Nxb. Hội Nhà văn tái bản trong bộ sách Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ Đổi Mới và gần đây được in lại trong bộ sách các tác phẩm được tặng Giải thưởng Nhà nước.
Nếu nói về đề tài, thì đó là cuốn tiểu thuyết viết về những công trình thủy lợi trên dải đất miền Trung khắc nghiệt trong mấy chục năm cuối thế kỷ 20. Và quả thật cuốn sách đã được viết sau nhiều đợt tôi “đi thực tế” tại các công trình thủy lợi ở Bố Trạch (Quảng Bình), đại thủy nông Nam Thạch Hãn (Quảng Trị) kênh đào Nam Sông Hương, rồi đập ngăn mặn Thảo Long (Huế)… Nhưng trong sách nếu chỉ có chuyện xây đập ngăn sông thì ngoài dân làm thủy lợi, mấy ai đọc, nhất là sách lại dày như thế. Vậy mà sách in lần đầu 25.000 bản, chẳng có chiêu thức “PR” nào (ngoài một bài viết của anh Phan Ngọc Thu trên Tạp chí Sông Hương) đã bán hết trong một thời gian ngắn.
Có lẽ cuốn tiểu thuyết “đứng” được và bán hết khối lượng lớn chính nhờ cái tên sách và cũng là hình tượng gợi nhiều suy nghĩ đến các vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Hình tượng đó chính là một chi tiết kỹ thuật - một sáng kiến - trong công trình đập ngăn mặn Thảo Long (gần cửa Thuận An): Thay vì làm một đập bê tông khổng lồ chắn ngang sông Hương để ngăn nước mặn, trong điều kiện tiền đầu tư hạn hẹp, các kỹ sư có sáng kiến làm những cánh cửa treo vào hàng cọc bê tông đóng giăng ngang cửa sông; khi thủy triều dâng, những cánh cửa bị ép vào hàng cọc, không cho nước mặn lên; còn mùa mưa bão, trước sức đẩy của nước từ thượng nguồn, những cánh cửa tự động mở để thoát lũ. Hình ảnh những cánh cửa tự do “bay lên” thật đẹp, đồng thời gợi nghĩ đến thái độ của con người trước thiên nhiên: không áp đặt thô bạo, mà biết nương dựa, hòa điệu với thiên nhiên...
Cho dù vậy thì đây cũng không phải là vấn đề của văn chương. May mắn là tôi nắm được “thực tế” này qua người bạn kỹ sư Hàm; và đặc biệt hơn, kỹ sư L.K.Đ., “đồng tác giả” Thảo Long. Anh là người đồng hương với tôi - anh là lớp sinh viên Trường Đại học Thủy lợi khóa đầu tiên, sau khi miền Bắc được hòa bình (1954), nhưng “nghe nói” do một “sự cố” gì đó, bằng tốt nghiệp của anh bị gác lại, lương bổng thua thiệt rất nhiều. Sau 1975, anh vào Huế tiếp nhận căn nhà bà mẹ giao lại và kết hôn với một cô giáo, chẳng ngại chi cô có anh trai là sĩ quan “ngụy” di tản sang Mỹ! Thế là từ hình ảnh những “cánh cửa” mở tự do của một công trình thủy lợi, tôi tìm đến vấn đề “Mở cánh tự do” (tên một phần trong tiểu thuyết) đối với trí thức, đối với mối quan hệ giữa “Bên thắng cuộc” với đồng bào ta ở miền Nam. Trong thời gian thi công đập Thảo Long, tôi đang ở nhờ một căn phòng của gia đình anh L.K.Đ., nên tôi đã “mượn” luôn khung cảnh căn nhà ở Huế này đưa vào tiểu thuyết…
“Thông điệp” của một tiểu thuyết dày trên 500 trang không chỉ từng đó. “Thực tế” gợi cảm hứng đầu tiên cho tác phẩm này lại là những dòng kênh khô cạn qua các triền đồi cháy nắng - hậu quả của kiểu lãnh đạo “duy ý chí”, tiêu tốn không biết bao nhiêu là tiền của và cả xương máu của những người lao động. Nỗi thương cảm trước cô gái trẻ bị cụt chân do vướng bom khi đào kênh ở ngay làng quê vợ tôi đã trào lên ngọn bút khi tôi viết một chương vào loại hay nhất trong tác phẩm, miêu tả sự hối hận và tỉnh thức của Hồng - nhà báo, con gái vị Phó Chủ tịch Tỉnh, người liều mạng khởi phát công trình sông đào vô dụng - khi cô có dịp trở lại thăm công trình mà cô đã “tô vẽ” hồi nào…
Công trình vô dụng đó là “điển hình” cho các con kênh mãi khô cạn, trong đó có sông đào “Nam Sông Hương” ở Huế. Khung cảnh làng quê ở bên sông với những mái nhà có các cánh cửa phía trước kiểu tấm rèm chống lên như “mi mắt mở chong”, với các bà mẹ nhân hậu chính là tôi “mượn” cảnh làng quê vợ tôi. Tôi cũng đã mấy lần đi tham gia lao động trên các công trình thủy lợi. Còn cảnh những chiếc xe chở nước ngọt bán cho dân phố do dòng sông nhiễm mặn là cảnh thành phố Huế mùa hè sau giải phóng, khi chưa có đập Thảo Long…
Hiện thực cuộc sống mà tôi thu lượm qua các chuyến “đi thực tế” ngành thủy lợi và vốn sống trực tiếp của tôi đã được “biến hóa” và đưa vào tác phẩm Những cánh cửa đã mở như thế đó. Trong kỳ tổng kết Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên 5 năm (1982 - 1987), Những cánh cửa đã mở đã được tặng Giải Bông Sen Trắng hạng A.
Việc “đi thực tế” để viết nên tiểu thuyết Nếu được chết thay em (Nxb. Thuận Hóa, 1989) thì đặc biệt hơn. Tác phẩm tuy cũng được Giải Cố đô hạng B (Tổng kết 5 năm Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế 1987 - 2003), nhưng ít được dư luận chú ý. Tuy vậy, nói đến chuyện “đi thực tế” để sáng tác, thì đây lại là một trường hợp khá “điển hình”.
Khi đi thực tế các công trình thủy lợi, ngoài nhiệm vụ trước mắt là viết vài bài ghi chép “người thật việc thật” để đăng báo như nhiều chuyến “đi thực tế” khác của hầu hết các nhà văn, tôi chưa hề nghĩ đến mục đích sẽ viết tiểu thuyết về công trình A… hay B… Các chuyến đi cũng rải rác trong nhiều năm và hầu như không ai tổ chức, không được ai giúp đỡ. Như khi đi tìm hiểu các công trình thủy lợi ở huyện Bố Trạch, tôi đạp xe đi một mình, đến nhà bếp cơ quan huyện ăn cơm phải nạp tiền và cả tem gạo!
Còn việc “đi thực tế” ở nhà máy xi măng Long Thọ - một xí nghiệp có truyền thống vẻ vang nhất ở Huế - là do “thủ trưởng” Nguyễn Khoa Điềm thấy tôi là một tác giả được xếp vào hàng “nhà văn công nhân”, gợi ý và rồi cử hẳn tôi về tham gia sinh hoạt suốt liền 3 tháng tại nhà máy. Và như thế, khởi đầu chuyến đi, tôi đã tự đặt nhiệm vụ là phải viết một cuốn tiểu thuyết về nhà máy này.
Suốt 3 tháng liền, tôi được nghỉ công tác ở Tạp chí Sông Hương, lên “bám trụ” tại Long Thọ. Long Thọ nổi tiếng không chỉ vì sản xuất ra vôi, xi măng từ thời Tây còn đô hộ mà do câu ca “Gió đưa cành trúc la đà - Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Cương” được truyền tụng trong dân gian. Nhà máy vôi Long Thọ đối diện với chùa Thiên Mụ qua sông Hương và ở cạnh Hổ Quyền - cũng là một di tích độc đáo của Huế. Tuy vậy, 3 tháng ở Long Thọ, tôi ít quan tâm đến các di tích mà tập trung tìm hiểu lịch sử nhà máy, đời sống công nhân, nhiều ngày đêm mang quần áo như công nhân xuống hầm khai thác đá vôi, lên lò luyện clinke, vào phòng thí nghiệm chất lượng sản phẩm… Đồng chí Lê Bá Lan, giám đốc nhà máy và các đồng chí trong Đảng ủy, Công đoàn nhà máy đều quan tâm đến công việc của tôi, bố trí một căn phòng nhỏ khi tôi ngủ lại và cung cấp những bữa ăn miễn phí theo tiêu chuẩn như công nhân; mỗi tháng, tôi còn được trợ cấp một khoản tiền nhỏ, có lẽ bằng mức lương thấp nhất của nhà máy.
Với sự “thâm nhập” thực tế như vậy, tôi đã viết vài bài ký một cách dễ dàng, nhưng mãi không tìm ra ý tứ, cốt truyện cho cuốn tiểu thuyết. Cho đến sau một trận lũ, hầm đá sâu hàng chục mét bị ngập chìm trong nước đã khiến 3 công nhân trẻ hy sinh. Từ sự cố này, tôi đã “dựng” thành tiểu thuyết Nếu được chết thay em, trong đó không chỉ có chàng công nhân từng bỏ nhà máy đi kiếm trầm cũng suýt mất mạng trong trận lũ kinh hoàng, phải sám hối rồi tỉnh ngộ mà nhiều người khác cũng tự “kiểm định” lại công việc của mình một cách nghiêm túc, như các nhân viên kỹ thuật trong việc kiểm tra chất lượng sản phẩm qua các mẩu thí nghiệm…
Cuốn tiểu thuyết ít được dư luận quan tâm, theo tôi, một phần do câu chuyện chưa đủ chất dính kết các nhân vật và quan trọng hơn là không mang một “chủ đề tư tưởng” có tầm khái quát, đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội. Nói cho công bằng thì cách chọn đề tài chỉ xoay quanh một nhà máy nhỏ ở địa phương, khiến tác giả rất khó “hư cấu” và tưởng tượng cũng như nâng tầm tư tưởng của tác phẩm lên cao. Điều này cũng đồng nghĩa là nếu “gò” nhà văn vào một đề tài, một “địa chỉ” quá cụ thể, sẽ khó tạo nên tác phẩm có chất lượng cao. Tất nhiên, đã nói chuyện sáng tác thì nguyên nhân chủ quan là chủ yếu: dù tác giả chung bữa ăn với công nhân, lên lò cao với thợ nhiều ngày đêm, nhưng có khi vẫn chưa hiểu hết những nỗi niềm sâu thẳm cũng như ước vọng cao xa của họ; và chuyện muôn thuở: thiếu tài năng!
Viết đến đây, lại phải nhắc đến nhà văn Hemingway với tiểu thuyết “Ông già và biển cả” - tác phẩm lớn mà “thực tế” chỉ có con cá mắc câu ngư ông giữa biển khơi mịt mù...
Tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu, (Nxb. Trẻ, 2003) thành công hơn, đã được tặng Giải Cố đô hạng A, cũng là kết quả của nhiều chuyến “đi thực tế.” Tác phẩm chủ yếu viết về cuộc chiến đấu chống lâm tặc, bảo vệ “lá phổi” của trái đất. Đó là xét thuần về đề tài. Cũng tương tự như với tiểu thuyết Những cánh cửa đã mở, tôi không có chủ đích viết một cuốn tiểu thuyết về rừng, trước những chuyến “đi thực tế” về các lâm trường, các hạt kiểm lâm. Tuy nhiên, cây rừng và những người giữ rừng là đề tài tôi quan tâm từ lâu, đơn giản vì từ năm 1962, khi chuyển công tác từ Hà Đông vào miền Tây Nghệ An, tôi thường xuyên sống giữa chốn rừng sâu, núi thẳm; trong mấy năm làm công tác bảo đảm giao thông trên đường chiến lược 12A, có thể nói rừng là tấm “khiên” khổng lồ che chắn, bảo vệ tính mạng cho tôi cùng ngàn vạn những chiến sĩ giữ con đường ra trận.
Khi đất nước hòa bình, tôi trở lại vùng rừng thông Ba Trại bên sông Gianh, rồi đến với những chiến sĩ kiểm lâm dưới chân đèo Hải Vân… nhưng sau các chuyến đi chỉ viết được mấy bài ký để đăng báo. Tôi cũng muốn viết một “cái gì đó” có dung lượng lớn hơn về đề tài này, nhất là dạo đó nhiều vụ phá rừng nghiêm trọng với sự cấu kết của các quan chức địa phương bị công luận lên án mạnh mẽ, nhưng một sáng tác văn học không thể chỉ dựa vào những bài báo - dù là bài điều tra đăng nhiều kỳ hấp dẫn.
Cho đến ngày dự Trại Sáng tác do Hội Văn nghệ mở ở Lăng Cô… Một câu chuyện tôi nghe từ hồi đi thực tế lâm trường Bố Trạch bỗng “sống lại”: Một nhân viên kiểm lâm bị lâm tặc bắt trói trong rừng với một thanh gỗ dài cột suốt hai cánh tay giang ra, tựa như một “cây thập giá sống”! Cách trả thù độc đáo này của bọn lâm tặc kích thích trí tưởng tượng trong tôi, nó như là cái nút kéo theo một chùm dây - những chi tiết thu lượm trong các chuyến đi thực tế và cả trên mặt báo, câu chuyện thương tâm về một cô gái ở quê bị “hư thai”, một số người lại bảo vì chồng là kiểm lâm đối xử ác với kẻ phá rừng, cả hình ảnh diễn viên xiếc thân thiết với hổ dữ… - tất cả kết lại thành một cốt truyện khá hấp dẫn, vừa có tính thời sự, vừa chuyển tải được những thông điệp đậm chất nhân văn. Vài dòng tóm tắt một mạch chuyện trong tiểu thuyết, bạn sẽ hình dung được phần nào: “Trong khi kiểm lâm viên Đức bị lâm tặc trói trong rừng sâu, đói khát kiệt quệ, đồng đội, thủ trưởng của Đức vẫn mải mê lo chuyện “đi đêm” với lãnh đạo địa phương để tiêu thụ gỗ lậu, dụ dỗ vợ của Đức, thậm chí định giết Đức để phi tang, bịt đầu mối, thì một con hổ không quên ơn cứu mạng của Đức hồi anh còn là lính Trường Sơn, đã đến giải cứu cho Đức…”.
Nói đến mối liên hệ giữa thực tế với sáng tác của nhà văn, có lẽ cũng nên kể thêm chi tiết này: Trong tiểu thuyết, khi bọn lâm tặc bị công an bao vây, tôi “bố trí” anh nhà báo (bạn học với Đức hồi phổ thông) đi theo và… “hư cấu” (hay là bịa) ra cảnh anh nhà báo bị lâm tặc dùng sào đâm mù mắt. Sau khi sách phát hành một thời gian, trên báo “Lao động” có bài tường thuật một cuộc vây bắt lâm tặc với chi tiết một người bị chúng đâm mù mắt, như là “cóp-pi” từ tiểu thuyết “Thập giá giữa rừng sâu” vậy! Té ra, tưởng tượng của nhà văn không xa mà đúng “y chang” hiện thực ngoài đời!
Hẳn là có bạn văn sẽ cười khi tôi kể những chuyện này, vì thiếu gì các cây bút “cách tân” được không ít nhà phê bình ngợi khen mà chẳng cần chi đi thực tế. Đó là chưa kể những nhà văn viết chuyện khoa học viễn tưởng. Với những cây bút hiện đại này, tôi xin cúi đầu bái phục. Tuy vậy, nhân kỷ niệm thành lập Hội, tôi chọn kể chuyện “đi thực tế” của chính mình, cũng để gợi nhắc bao nhiêu là chuyến đi vui vẻ và “rầm rộ” hơn, xuất phát từ ngôi nhà 26 Lê Lợi - một công việc tương đối hữu ích của các tổ chức văn nghệ. Tôi nghĩ là có lẽ không vô ích, vì ít ra, nếu thấy đây là “con đường” lạc hậu và kém hiệu quả, thì các nhà quản lý, các bạn đồng nghiệp sẽ tìm cách đi tốt hơn.
N.K.P
(SH319/09-15)