LÂM QUANG MINH
Tôi không có vinh dự như nhiều anh chị em cán bộ, dũng sĩ từ miền Nam ra Bắc công tác, học tập hay chữa bệnh, được trực tiếp gặp Bác Hồ, được Bác ân cần động viên dạy bảo, được cùng ngồi ăn cơm với Bác, được Bác chia bánh chia kẹo... như người cha, người ông đối với các con cháu đi xa về.
Nhưng tôi lại có may mắn được gặp và được đón Bác nhiều lần trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, trong thời gian từ năm 1946 đến khi Bác đi xa, năm 1969.
Lần đầu tiên là vào đầu năm 1946, sau khi tham gia chiến đấu ở Mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa, ra đến Phú Yên thì tôi được lệnh điều động gấp ra Bộ Quốc phòng nhận công tác. Ở Hà Nội, trong khi chờ đợi cấp trên giao nhiệm vụ (sau này mới biết là lên Sơn Tây phụ trách cán bộ khung ở Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn - khóa I), tôi may mắn được người anh con bác vừa mới được bầu Đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam, cho tôi một giấy mời dự thính kỳ họp đầu tiên của khóa Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới được thành lập. Đây là một dịp may mắn hiếm có trong đời, khi từ tầng trên đối diện với sân khấu Nhà hát lớn thành phố, tôi hồi hộp nhận rõ hình dáng của vị lãnh tụ kính yêu trong bộ quần áo ka ki giản dị, tươi cười giơ tay vẫy chào các vị đại biểu cho cả nước và khách mời, trong tiếng vỗ tay hoan hô chào đón nồng nhiệt vang dội của toàn hội trường.
Với giọng nói cởi mở ấm áp chân tình, Bác kêu gọi phải thực hiện đại đoàn kết, trước hết là trong Quốc hội để cùng Chính phủ lãnh đạo đất nước chống ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm (lúc đó trong Quốc hội có hơn 70 ghế đại biểu đương nhiên dành cho Quốc Dân Đảng và Đảng Việt Cách)...
Lần thứ hai là vào ngày 26 tháng 5 năm 1946, tuy bận trăm công nghìn việc, Bác vẫn ưu ái dành thời gian đến dự lễ khai giảng khóa I, Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn ở Sơn Tây, trường Võ bị quốc gia đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Đứng nghiêm trong hàng quân, gần bốn trăm cán bộ và học viên chúng tôi chứng kiến Bác trang trọng trao lá cờ có thêu sáu chữ Trung với Nước, Hiếu với Dân cho đại diện học viên, đồng chí Bùi Minh Trân, mới từ chiến trường Nam Bộ ra và lắng nghe lời dặn dò ân cần của Bác: “Trung với Nước, Hiếu với Dân là bổn phận, là một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sĩ... Phải coi đó là mục đích của đời mình”. Từ đó, Trung với Nước, Hiếu với Dân đã trở thành bản chất truyền thống của Trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn, kế tục sự nghiệp vẻ vang của Trường Võ bị khóa I và của cả Quân đội ta nữa.
Ở Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, chỉ trong vòng 6 tháng, chúng tôi lại được vinh dự đón Bác đến thăm 2 lần nữa, Bác luôn quan tâm ưu ái dành cho nhà trường và lớp trẻ chúng tôi.
Sau khi Bác đi thăm nước Pháp về, Bác đã lên thăm ngay trường chúng tôi, với những lời rất thân mật chân tình: “Đi Pháp về, nhớ những đồng chí trẻ của mình, đồng chí già lên thăm ngay và căn dặn mấy điều...”.
Vào tháng 11 năm 1946, tình hình hết sức căng thẳng, thực dân Pháp ngày càng tỏ ra hung hăng, khiêu khích nhiều nơi. Sau khi dự kỳ họp thứ 2 của Quốc hội, ngày 10 tháng 11 năm 1946 Bác đã lên ngay trường để kiểm tra kết quả huấn luyện và động viên chúng tôi cảnh giác sẵn sàng chiến đấu.
Hơn 60 năm đã trôi qua, cán bộ học viên khóa I Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, không hề hổ thẹn với lời thề Trung - Hiếu năm xưa với Bác: gần 100 đồng chí đã ngã xuống trên khắp các chiến trường để cho Tổ quốc quyết sinh; còn lại đa số là cán bộ cao cấp trong quân đội, số chuyển ra ngoài đều cũng đã giữ những trọng trách trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao... nay đã nghỉ hưu về với đời thường nhưng vẫn tham gia công tác ở các vị trí xã hội khác nhau.
Lần thứ năm tôi được gặp Bác là vào cuối năm 1952, sau 7 năm kháng chiến chống Pháp. Tôi được trên chỉ định làm trưởng đoàn đưa một đoàn gồm 16 cán bộ trung, sơ cấp từ Liên khu 5 ra chiến khu Việt Bắc dự khóa chỉnh huấn chính trị do Tổng cục Chính trị chủ trì, khóa học gồm hơn 400 cán bộ từ khắp các chiến trường, được Bác đến thăm hỏi động viên ân cần. Riêng đoàn Liên khu 5, ăn mặc đồng phục đón Bác, được Bác khen ngợi và giới thiệu với toàn lớp học, đại ý như sau: Các chú bộ đội và đồng bào Liên khu 5 không những đánh giặc giỏi, mà còn làm kinh tế tự túc giỏi, tăng gia sản xuất giỏi. Bác gửi lời khen các chú và đồng bào Liên khu 5. Bác lại thân mật hỏi han tỉ mỉ: Các chú từ Liên khu 5 ra đến đây hết bao nhiêu thời gian, có chú nào rơi rớt dọc đường không? Tôi thay mặt anh em lễ phép trả lời và hứa sẽ về báo cáo lại với cấp trên và đồng bào Liên khu 5 về sự quan tâm và những lời biểu dương động viên của Bác. Đêm đó, tôi không sao ngủ được, lòng bồi hồi xúc động, lần đầu tiên đứng gần và trực tiếp thưa chuyện với Bác, giữa núi rừng Việt Bắc - Thủ đô kháng chiến của ta.
Lần thứ 6 là lần được gặp lại Bác sau 4 năm (1956) ngay trong lòng Thủ đô Hà Nội, không chỉ mình tôi, mà cả gia đình vợ con tôi may mắn cùng được gặp Bác. Số là tôi từ đơn vị đóng quân ở Quân khu 4 (Nghệ An) ra dự lớp bổ túc Pháo binh ở Sơn Tây, nhận được phép về Hà Nội thăm gia đình, vợ tôi vừa mới sinh đôi 2 cháu gái, đang ở nhờ nhà ông cậu làm Hiệu trưởng trường cấp 3 Chu Văn An, cạnh Hồ Tây. Hôm ấy là buổi chiều của một ngày giữa tháng 12 năm 1956, Bác đến thăm trường. Nghe tin, tất cả các gia đình cán bộ, nhân viên đều hối hả chạy đến sân trường, trong khi giáo viên và học sinh các lớp đã tập hợp hàng ngũ chỉnh tề sẵn sàng đón Bác. Tôi vội bê một cháu, vợ tôi bê một cháu len lỏi trong đám đông, được bà con ưu tiên cho đứng lên trên để nhìn rõ Bác hơn… Mặc dù gia đình chúng tôi không phải là đối tượng của cuộc viếng thăm và dặn dò của Bác, nhưng đối với chúng tôi đây là một dịp may mắn hiếm có trong đời, một kỷ niệm khó quên, nhất là với vợ tôi, được tận mắt trông thấy lãnh tụ vô vàn kính yêu, với bộ y phục ka-ki, tác phong nhanh nhẹn hoạt bát, giọng nói ấm áp chân tình, lời nói mộc mạc, đầy thuyết phục. Đúng là trăm nghe không bằng mắt thấy. Sau hôm ấy, chúng tôi bàn nhau đặt tên hai cháu là Hạnh - Phúc, kỷ niệm ngày hạnh phúc được gặp Bác Hồ kính yêu.
Lần thứ 7 gặp Bác tại quê hương Nam Đàn - Nghệ An vào khoảng tháng 6 năm 1957. Sau khi về thăm quê Nam Liên. Bác đến gặp cán bộ, chiến sĩ miền Nam của Sư đoàn 324 chúng tôi tại chân Rú Đụn - Nam Đàn. Bác đến đúng lúc miền Nam đang trong thời kỳ đen tối, Mỹ Diệm ra sức phá hoại Hiệp định Genève, bắt bớ giam cầm tra tấn giết hại dã man cán bộ đảng viên và bao người dân vô tội, khiến anh em vô cùng bức xúc, ngồi đứng không yên. Xúc động trước sự quan tâm ưu ái của Đảng và Bác, được sự động viên ân cần và lời dạy bảo chí tình của lãnh tụ kính yêu, mọi người đều xác định quyết tâm, yên tâm, ra sức góp phần xây dựng quân đội chính quy từng bước hiện đại, xây dựng hậu phương miền Bắc từng bước vững mạnh về mọi mặt làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, đồng thời sẵn sàng trở về Nam khi có lệnh.
Lần thứ 8 và cũng là lần cuối cùng tôi được gặp Bác trong một hoàn cảnh đặc biệt đau thương tiễn Bác ra đi. Đầu tháng 9 năm 1969, đoàn cán bộ công tác chúng tôi từ chiến trường miền Nam vừa về đến Hà Nội thì nghe tin Bác mất. Thời tiết Hà Nội mấy hôm đó biến đổi khác thường, trời đất âm u, mưa dầm lê thê, như cảm thông chia sẻ cùng đồng bào cả nước những giọt nước mắt tiếc thương tiễn biệt Bác đi xa. Giữa đêm khuya, dưới trời mưa, chúng tôi lần từng bước theo dòng người vô tận vào viếng Bác. Tôi bấm bụng cố nén đau thương trong lòng, nhưng rồi nước mắt vẫn trào ra không gì kìm hãm được. Bác vẫn nằm đó, ung dung thanh thản như một ông tiên; trước mắt tôi hiện ra hình ảnh một cụ già quắc thước đang đánh nhịp cho các con cháu hát bài ca Kết đoàn, bên tai tôi còn vang vọng tiếng nói ấm áp của Người, kêu gọi Đoàn kết, đại đoàn kết, nhắc nhở cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, dặn dò Trung với Nước, Hiếu với Dân...
Và tôi chợt nhớ đến câu thơ mộc mạc giản dị, nhưng chí lý, chí tình của nhà thơ Tố Hữu: “Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn”.
L.Q.M
(TCSH339/05-2017)