Theo tiến sĩ Nguyễn Nhã, ở huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có một người đàn ông vào độ tuổi “xưa nay hiếm” đang sở hữu hàng nghìn cổ vật có giá trị do tự bỏ tiền mua hoặc tự sưu tầm, trong đó có những có cổ vật liên quan đến Hoàng Sa... Từ gốc cổ thụ mang tên "Chinh phụ Hoàng Sa" Người có thú đam mê cổ vật đó là ông Phạm Thoại Tuyền, hậu duệ đời thứ bảy của Thủy quân Chánh suất đội nổi tiếng Phạm Hữu Nhật, một trong những vị Chánh cai đội nổi tiếng trong đội hùng binh Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa năm xưa vâng mệnh triều đình dong thuyền ra quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa để làm nghĩa vụ thiêng liêng của bề tôi với bậc đế vương là khai thác sản vật, đo đạc thủy trình, dựng bia, cắm mốc chủ quyền lãnh hải biên giới Quốc gia. Ông còn là hậu duệ của cụ Phạm Danh Lân - người giữ chức vụ Thủ sắc ở đình làng An Vĩnh, Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Câu chuyện của tiến sĩ Nguyễn Nhã với những người bạn của ông trên con tàu lắc lư, chập chờn theo từng cơn sóng biển ra đảo Lý Sơn đã khiến phóng viên TTXVN tìm đến nhà “ông cổ vật” ở thôn Đông, xã An Vĩnh, tỉnh Quảng Ngãi. "Ông cổ vật" đang tỉ mẩn chăm sóc cây cổ thụ già với đầy vết tích của thời gian, được ông đặt tên là “Chinh phụ Hoàng Sa,” một tái hiện sinh động rất riêng trong tâm hồn của ông về sự khắc khoải, mòn mỏi chờ chồng đến vô vọng của người cô phụ. Ông Đặng Thoại Tuyền cho biết từ mấy trăm năm trước trên hòn đảo mang tên Lý Sơn nằm giữa muôn trùng sóng vỗ này và những vùng phụ cận ven biển Quảng Ngãi có hàng nghìn thiếu phụ đã phải chôn chặt tuổi xuân bởi chồng ra đi vì nghĩa lớn rồi vĩnh viễn không về. Những người chồng, người con ấy chính là những hùng binh trong đội Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa năm xưa đã vệ quốc vong thân, được muôn đời hậu thế thờ tự, tri ân mà bằng chứng hùng hồn nhất là Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa. Lời giảng giải về những trang sử Trong căn phòng khách của ngôi nhà cổ được “bao vây” bởi vô số cổ vật được nâng niu trong những chiếc tủ kính, những ký ức từ sâu thẳm của thời gian cùng những biến cố thăng trầm của lịch sử gắn liền với từng món cổ vật cùng với những trải nghiệm về cuộc mưu sinh, cuộc đời, bổn phận của thần dân và những binh phu từ thời “đầu bản triều.” Theo ông, vào thời kỳ các chúa Nguyễn bắt đầu thiết lập bộ máy chính quyền ở vùng đất phía Nam của Tổ quốc đến thời các chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và thời nhà Nguyễn sau này lần lượt hiện về trong tâm trí của ông bằng những câu chuyện kể súc tích, ngọn nguồn. Bất chợt tôi trân trọng gọi ông bằng danh xưng với tấm chân tình khả kính “Người chép sử bằng cổ vật.” Rón đôi tay gầy guộc châm nước vào chiếc bình trà có từ thời Cảnh Hưng để tiếp kẻ hậu sinh “không mời mà đến,” ông Thoại Tuyền khẽ khàn như một nhà khảo cổ trầm tư kể: “Tôi muốn giữ lại tất cả những gì mình có của quá khứ thuộc về gia đình, dòng tộc, địa phương, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở nơi xa xôi mà gần gũi, máu thịt, thiêng liêng, nơi hàng mấy trăm năm trước thế hệ cha ông của tôi, của chúng ta đã ra đi và nhiều người đã gửi mình trong làn nước biển xanh để giữ gìn sự vẹn toàn hình hài của giang sơn gấm vóc." Ý nguyện đó chính là “cơ duyên” đưa lối cho tôi đến với “miền đất thiêng” sưu tầm và gìn giữ cổ vật. Đối với tôi từng món đồ cổ trong ngôi nhà này đều là những báu vật, Người chép sử bằng cổ vật cho biết. Giới thiệu với kẻ hậu sinh về tấm “An Nam Đại Quốc họa đồ” của Gíam mục Taberd, người Pháp vẽ năm 1838 in trong cuốn Từ điển Latinh An Nam được phóng to treo trang trọng giữa nhà, ông “cổ vật” Phạm Thoại Tuyền cho hay: “Năm rồi, nhân chuyến ra đảo Lý Sơn công tác, tiến sĩ Nguyễn Nhã có đến thăm nhà và tặng tôi tấm bản đồ này. Đối với tôi đây là một báu vật, bởi An Nam Đại Quốc họa đồ là một trong những bằng chứng khách quan về lịch sử cho thấy quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Nó khách quan như lịch sử khách quan vậy." "Tôi nói nó khách quan bởi ông Taberd là người Pháp và trên tấm bản đồ này cũng không có bất cứ một từ, một hòn đảo nhỏ nào quanh khu vực rộng lớn của quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa được ông Taberd và cộng sự của mình khi cho xuất bản cuốn Từ điển Latinh An Nam ghi là của nước khác cả,” cụ Tuyền giảng giải. Ông “chép sử bằng cổ vật” chậm rãi nói: “Tôi đã đọc một số sử liệu cũ ghi rằng, năm Minh Mạng thứ 14 (1833), Nhà vua chỉ thị cho Bộ Công chuẩn bị lo việc phái binh phu ra nơi quần đảo Hoàng Sa để tuần phòng, dựng bia cắm mốc chủ quyền. Sách Đại Nam Thục Lục Chính Biên Đệ Nhị Kỷ, chép rằng từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tấu vua hằng năm cho cử người ra Hoàng Sa cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền và đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ." Trước tờ tấu trình của bề tôi, Vua Minh Mạng phê chuẩn trong bản tấu của Bộ Công ngày 12/2/1836 rằng "Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ dài 4,5 thước, rộng năm tấc, dày một tấc làm cột mốc." Trong số những người thực hiện nghĩa vụ của thần dân với đất nước ngày xưa ấy, có rất nhiều người “một đi không trở lại.” Họ chính là những “nhân vật chính” trong Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa được cư dân huyện đảo Lý Sơn duy trì từ mấy trăm năm qua.” Bức tượng thờ bí ẩn Ông cho biết hiện ông đang lưu giữ ngót nghét 2.000 món cổ vật khác nhau. Cách đây mấy năm ông đã tự nguyện hiến tặng hàng trăm món cổ vật cho Bảo tàng tổng hợp Quảng Ngãi vì sợ rằng mình không có khả năng bảo quản hết được. Bộ sưu tập của ông có hàng nghìn món nhưng ông thích nhất là các cổ vật của văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chămpa, các văn bản, sắc chỉ, khế ước bằng văn bản Hán Nôm, các tượng bán thân. Ông đặc biệt tiếc nuối vì bản sắc phong thần của vua Gia Long cho những binh phu đi “Hoàng Sa xứ tối thị hiểm yếu” được ông tổ của ông là cụ Phạm Danh Lân - người giữ chức vụ Thủ sắc ở Đình làng An Vĩnh lưu truyền lại cho dòng tộc nay đã bị thất lạc. Mỗi món cổ vật đều có gốc gác, cội nguồn của nó, ông Tuyền tâm sự. Đưa tay đỡ lấy bức tượng bán thân được làm bằng đồng, “ông cổ vật” cho biết lúc ông có được bức tượng này cách đây ngót 20 năm, ông đem hỏi các bậc cao niên trong làng, được các cụ cho rằng có thể đây chính là bức tượng của một trong số các vị Cai đội thủy quân nổi tiếng như Phạm Quang Ảnh, Võ Văn Khiết, Nguyễn Quang Tám, Phạm Hữu Nhật… được người đương thời quý trọng nên đúc tượng để thờ. Tuy sở hữu kho cổ vật đồ sộ như vậy nhưng ông Tuyền vẫn một mực khiêm tốn “so với kho đồ cổ của ông Lâm Zũ Xênh hay của nhiều người khác trên đảo Lý Sơn và ở nhiều nơi trong tỉnh, tôi vẫn còn thua xa.” Tuy nhiên nhiều người cho rằng kho cổ vật của ông Truyền chứa đựng rất nhiều giá trị về văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chămpa, đặc biệt là dấu tích về thời gian từ thời các chúa Nguyễn bắt đầu thiết lập bộ máy chính quyền ở vùng đất phía Nam của Tổ quốc đến thời các chúa Nguyễn, thời Tây Sơn và thời nhà Nguyễn sau này gắn liền với sự vẹn toàn về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên biển Đông. Chia tay tôi, “Người chép sử bằng cổ vật” Đặng Thoại Tuyền còn dặn “hiện nay trên vùng biển Sa Kỳ vẫn còn nhiều dấu tích liên quan đến đội Hoàng Sa và Trường Sa như vườn đồn là nơi các binh phu tập trung trước khi xuất bến; miến Hoàng Sa - nơi các binh phu tế thần trước lúc đạp sóng ra khơi. Đặc biệt, trên đảo Lý Sơn vẫn còn nhiều dấu tích liên quan đến đội hùng binh Hoàng Sa, Trường Sa như nhà thờ họ Võ và mộ cụ Võ Văn Khiết, nhà thờ và mộ cụ Phạm Quang Ảnh cùng các binh phu đi Hoàng Sa; nhà thờ chi phái Phạm Văn và mộ cụ Phạm Hữu Nhật; nhà thờ họ Đặng thờ cụ Đặng Văn Siểm, là tộc họ đã hiến tặng cho Nhà nước tài liệu lịch sử quý giá liên quan đến chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa sau 175 năm cẩn trọng trao truyền gìn giữ; mộ cụ Nguyễn Quang Tám. Hay đình làng An Vĩnh, An Hải - nơi những binh phu tế tự trước khi lên đường làm nhiệm vụ; Âm Linh Tự - nơi phối thờ các chiến sĩ Hoàng Sa và Trường Sa trong nhiều thế kỷ. Đó là những bằng chứng lịch sử không thể tranh cãi về chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên biển Đông của Việt Nam, cụ Đặng Thoại Tuyền kết luận./. Theo Đoàn Hữu Trung (Vietnam+) |