Những người đàn bà đúc tiền Ngay sau khi lên ngôi lấy hiệu là Gia Long (năm 1802), chuyển kinh đô từ Thăng Long vào đất Thuận Hóa và đổi tên Thăng Long là Bắc thành, Nguyễn Ánh đã cho lập xưởng đúc tiền ngay tại Thuận Hóa vào năm 1803. Tuy nhiên, việc vận chuyển tiền từ Thuận Hóa ra Bắc thành để trả lương cho Tổng trấn Bắc thành cùng các quan, binh lính đồn trú ở Lạng Sơn và các tỉnh thành khác ở miền Bắc mất quá nhiều thời gian do đường sá xa xôi, lại không an toàn. Vì thế năm 1808, vua Gia Long đã cho lập xưởng đúc tiền Gia Long Thông bảo trên đất thôn Tràng Tiền nên có tên gọi là Tràng Tiền (hay Trường Tiền). Tràng Tiền xưa thuộc đất làng Cựu Lâu, huyện Thọ Xương. Dân chúng ở thôn này hiền lành, chất phác, sinh sống chủ yếu bằng việc bắt tôm cá ở hồ Lục Thủy mang vào bán cho dân làm nghề thủ công trong kinh thành. Sở dĩ vua Gia Long cho lập tràng đúc xa Bắc thành vì đất đai ở đây rộng rãi, đường sá thuận tiện và từ đây vào trong thành cũng thuận tiện. Tuy nhiên, xưởng đúc này không lớn bằng xưởng ở Thuận Hóa. Mỗi một cỡ tiền, vua Gia Long ra chỉ dụ gửi 1.000 đồng mẫu ra xưởng đúc Tràng Tiền để đúc. Mẫu tiền đầu tiên đúc ở tràng đúc này có đường kính 5 phân 5 ly, mỗi quan nặng 2 cân 4 lạng.
Tháng giêng năm Giáp Tuất, tức năm Gia Long thứ 12 (1814) bắt đầu đúc tiền kẽm nặng 7 phân. Lúc này ở Bắc thành có hai người là Triều Hiền Chu và Chu Vĩnh Cát xin tự mua kẽm đúc tiền và cứ 130 quan kẽm, Chu và Cát chỉ đổi lấy 100 quan tiền đồng. Quan tâu lên và được vua Gia Long chấp thuận. Vì triều đình ở xa, để có một người chịu trách nhiệm, vua Gia Long giao Hiệp Tổng trấn Lê Chất chịu trách nhiệm trước vua làm theo mẫu Bộ Hộ từ Thuận Hóa đưa ra. Đồng thời, vua Gia Long cũng cho phép người dân có kẽm được mang đến đúc ở Tràng Tiền. Khi thành tiền, cứ 125 quan tiền kẽm đổi được 100 quan tiền đồng. Tiền mỗi quan phải đúng cân đúng lạng, nếu thiếu từ 15 đồng trở xuống thì cho nộp phụ phí, còn thiếu 16 đồng trở lên thì hủy luôn, không dùng. Nếu pha với chì bị phát hiện thì lập tức bị chém đầu. Xưởng Tràng Tiền không được phép dùng kẽm phế mà phải dùng kẽm lấy ở Thái Nguyên. Đúc mỗi một trăm đồng tiền, tiền công thợ là 8 đồng 2 phân 4 ly 2 hào 5 hốt. “Chết làm Thành hoàng làng Mơ”
Trương Văn Minh báo cáo với triều đình là phụ nữ sức có yếu, vóc có nhỏ so với đàn ông nhưng họ thật thà hơn nên xin tuyển đàn bà con gái. Triều đình chấp thuận bản tấu của Minh. Tiếp đó Trương Văn Minh còn cho phép lính gác có quyền khám xét tất cả thợ đúc khi rời khỏi xưởng. Thế là hết giờ làm việc, chị em qua cổng về nhà đều bị lính gác kiểm tra, có lính lợi dụng sờ nắn ngực. Các cô chưa chồng đỏ mặt, còn những phụ nữ có chồng ức nổ cổ nhưng cũng không dám kêu. Chính vì thế Bắc thành có câu: Thứ nhất làm lính Tràng Tiền Thứ nhì được cúng quan hiền Kẻ Mơ Hoặc: Sống làm lính gác Tràng Tiền Chết làm Thành hoàng làng Mơ Câu thơ thứ hai liên quan đến câu chuyện về một vị quan trấn ở đất Mơ. Vị quan này thanh liêm và hiền lành nhưng lại có tật là... thích chị em. Tương truyền vị quan này đột tử, hồn thường hay hiện về trêu chọc người dân, nhất là chị em phụ nữ. Vì thế, dân kẻ Mơ quyên tiền xây đền thờ ngài, xây xong dân đi qua không bị trêu chọc, đùa bỡn nữa. Sáng sáng, chị em vùng Mai Động, Hoàng Mai, Tương Mai... (nay thuộc quận Hai Bà Trưng) gánh rau đi bán ghé vào đặt quả cau lá trầu, thắp một nén hương khấn vái để buôn may, bán đắt. Sau đó chị em... vén váy cho ngài xem. Theo Nguyễn Ngọc Tiến - TN |