Nhân ngày xuân xin cùng bạn điểm qua một số bài thơ về đề tài đó của nước danh nhân đất nước. Nhà thơ họ Cao: Phú Thị là một làng thuộc Bắc Ninh xưa (nay thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội) có một ngôi đình lớn mang tên làng - còn có tên là đình Sủi. Trên cho phép đắp một đôi voi phục trước cổng đình, bọn hương lý địa phương cơ hội này bớt xén kinh phí để bỏ túi khiến công trình không đạt chất lượng và thẩm mỹ. Dân làng ca thán nhiều tới tai Cao Bá Quát. Nhà thơ đã trực tiếp thị sát công việc xem kỹ đôi voi - quả lời ca thán của chúng dân là chính xác. Ông liền viết một bài thơ đề ngay trên mình voi, rằng: “Khen ai kheo khéo đắp đôi voi Đủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi Chỉ có cái kia sao không đắp Hay là hương lý bớt đi rồi?” Bài thơ khiến dân chúng sung sướng hả dạ rồi thi nhau đọc đến thuộc lòng còn bọn hương lý vừa tức giận vừa e sợ và kính nể. Tam nguyên Yên Đổ: Sau khi rạng danh, Nguyễn Khuyến từng quan tâm đến việc phê phán những việc làm bất nghĩa, vô đạo đức của bọn quan lại. Ngày ấy viên quan đốc học tỉnh Hà Nam hay ăn tiền của học sinh trong các kỳ thi cử.Nhà thơ đã viết bài thơ tặng tên quan tham này như sau: "Ai rằng ông dại với ông điên Ông dại sao ông biết lấy tiền Cây các bảng vàng treo Nhị giáp Khoét thần mặt trắng lấy Tam nguyên Dẫu nhà vừa thoát sừng trâu đỏ Phép nước xin chừa móng lợn đen Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen" Bài thơ khiến quan đốc học vô cùng hổ thẹn, bẽ bàng. Thi sĩ Tản Đà: Quan tri phủ huyện Anh Sơn (Nghệ An) Phan Tứ là kẻ tham nhũng có hạn. Chỉ mấy tháng làm “quan phụ mẫu” mà y đã chiếm được tới ba ngàn đồng - số tiền này lúc đó là rất lớn. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu có bài thơ chỉ tận tay, day tận trán như sau: "Thái Bình chưa dứt tiếng kêu than Lại tiếng kêu trời ở Nghệ An Một phủ Anh Sơn vừa mấy tháng Mà tay Phan Tứ lấy ba ngàn Cũng phường dối nước, quân ăn cắp Cũng lũ tàn dân, giống hại đàn..." Tuần phủ Vĩnh Yên là Đào Trọng Vận trong một vụ xử kiện đã ăn đút lót tới hai ngàn rưỡi đồng bạc để xử sai lệch hại dân lành. Khi đó Tản Đà đang là chủ bút "An Nam tạp chí" liền gợi ý cho một nhà văn trong tòa soạn là Ngô Quý Tiếp dựa vào câu chuyện đó để viết một truyện ngắn nhan đề “Tờ di chúc” rồi thi sĩ làm bài thơ “Xem tiểu thuyết tờ chúc thư cảm đề” để vạch mặt tên quan này trước công luận. Bài thơ viết rằng: “Thật có hay là mắc tiếng oan Kém năm trăm nữa đủ ba ngàn Hơi đồng đã sạch mồm ông lớn Mặt sắt còn bia miệng thế gian Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn Cho nên quân nó dễ làm quan Đào mà đào được nên đào mãi Mềm cứng bây giờ đất Vĩnh An” Bài thơ này được tác giả cho in trên An tạp chí số 8 -1927 khiến tên tuần phủ tím mặt.
Tuần phủ Ninh Bình là Từ Đạm - một tên quan tham nhũng, lại kiêu kỳ háo danh một cách kệch cỡm. Một lần về thăm thắng cảnh Non Nước tại thị xã Ninh Bình là Từ Đạm cho người đục vào đá một bài thơ kiểu “con cóc” của hắn trên đỉnh Dục Thúy rằng: “Trăng gió vui cùng hắn Lầm than bận kệ ai Ham chơi non với nước Có phúc được ngồi dai” Không những thế, năm sau hắn còn trơ trẽn cho đục cả một bàn cờ và hai lốt chân của mình trên đá. Thi sĩ thấy nực cười bèn dạy cho hắn một bài học bằng cách thuê người đục một bài thơ cạnh bài thơ của Từ Đạm: “Năm ngoái năm xưa đục mấy vần Năm nay quan lại đục hai chân Khen thay đá cũng bền gan nhỉ Chịu mãi cho quan đục mấy lần” Chữ đục được nhắc lại đến ba lần thành điệp ngữ để vạch mặt thói đục khoét của y. Sau đó, có lần Từ Đạm đi chơi Non Nước, đọc bài thơ của Tản Đà mặt hắn trắng bệch, mồm há hốc... T.T
(nguồn: TCSH số 203-204 – 01&02 - 2006)
|