Nghiên Cứu & Bình Luận
Việc sử dụng hiện tượng cùng trường nghĩa và giả cùng trường nghĩa để gây cười, trong truyện cười người Việt
09:00 | 25/03/2022

 

TRIỀU NGUYÊN

 

Việc sử dụng hiện tượng cùng trường nghĩa và giả cùng trường nghĩa để gây cười, trong truyện cười người Việt
Ảnh: internet

Ban Biên tập Tạp chí Sông Hương nhận được tin nhà giáo, nhà nghiên cứu Triều Nguyên từ trần vào ngày 22/2/2022. Nhà nghiên cứu Triều Nguyên tên thật là Lư Viên, sinh năm 1952; nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế; nguyên Chủ tịch Hội Văn nghệ Dân gian Thừa Thiên Huế; hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế. Ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (đợt II năm 2012) lĩnh vực Văn nghệ dân gian, với các công trình nghiên cứu: a) Góc nhìn cấu trúc về truyện ngụ ngôn dân gian Việt Nam (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004; b) Khảo luận về tục ngữ người Việt (Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006); và c) Ca dao Thừa Thiên Huế (Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế xuất bản, Huế, 2005).

     Nhà nghiên cứu Triều Nguyên là cộng tác viên thân thiết của Tạp chí Sông Hương. Bài viết dưới đây Ban Biên tập nhận được trong năm và đã lên trang song chưa kịp in lúc tác giả còn tại thế. Ban Biên tập Tạp chí Sông Hương xin chia buồn cùng gia đình, bạn bè thân hữu của nhà nghiên cứu, và trân trọng giới thiệu đến bạn đọc như một nén nhang thành kính tưởng nhớ ông.

1. Khái quát

Trường nghĩa được hiểu là một tập hợp các đơn vị từ vựng theo một nét gần gũi nào đó về nghĩa. Tập hợp này không bao gồm những kết cấu ngữ nghĩa của từ đa nghĩa và những loạt cùng nghĩa(1) và trái nghĩa. Cùng trường nghĩa khi một yếu tố trong tập hợp vừa nêu thỏa mãn các điều kiện về nghĩa của tập hợp ấy; giả cùng trường nghĩa khi một nhân tố khoác “dáng vẻ” của một yếu tố của trường đặt ra, trong lúc bản thân thì không thuộc trường kia. Thí dụ, tập hợp các từ “xanh”, “vàng”, “đỏ”, “tím”, “trắng”,… là một trường nghĩa bao gồm các từ chỉ màu sắc; trong đó, mỗi yếu tố “xanh” hay “vàng”,... được cho là cùng trường nghĩa này; giả sử có từ “nhạt” hoặc “sẫm” được đưa vào tập hợp trên, thì hai từ ấy không dùng để chỉ một màu sắc cụ thể nào (nhưng dễ bị hiểu nhầm chúng cũng chỉ màu sắc)(2), được gọi là giả cùng trường nghĩa.   

Một số truyện cười dân gian người Việt sử dụng hiện tượng cùng trường nghĩa và giả cùng trường nghĩa để gây cười. Số này không nhiều, nhưng cần chú ý khi muốn nắm bắt một cách thấu đáo về chúng.  

Để thực hiện bài viết này, người viết đã chọn lọc từ khoảng 150 đầu sách có giới thiệu truyện cười, từ truyền thống đến hiện đại, rồi dựa vào đó mà thống kê số văn bản truyện đặt ra. Đồng thời, nhằm tiện nắm hiểu, cũng chia nội dung sự việc làm hai bộ phận: 1/ Hiện tượng cùng trường nghĩa trong truyện cười dân gian người Việt; và 2/ Hiện tượng giả cùng trường nghĩa trong truyện cười dân gian người Việt.

Việc làm ấy được hệ thống hóa thành bảng sau: 


2. Việc sử dụng hiện tượng cùng trường nghĩa và giả cùng trường nghĩa để gây cười, trong truyện cười người Việt

Theo bảng, có 14 mẩu truyện cười sử dụng hiện tượng cùng trường nghĩa và giả cùng trường nghĩa để tạo nên tiếng cười. Để nắm bắt vấn đề một cách hệ thống, ở mặt chính diện, có lẽ cần miêu tả, bằng cách kể lại theo lối tóm lược, và phân tích để thấy các hiện tượng đang được quan tâm, từ số các tác phẩm này.  

2.1. Việc sử dụng hiện tượng cùng trường nghĩa để gây cười, trong truyện cười

- Truyện “Ê, con bò cái!”, kể về một người phụ nữ tất bật với công việc, việc nhà, việc cơ quan. Khi được hỏi “Chị thấy mình là ai?’’, người phụ nữ nọ trả lời, đại ý: Chị ta đã chuẩn bị bữa sáng như một con sóc, chạy ra bến xe như một con hươu con, bám lên xe buýt như một con khỉ, làm việc nhà đến tận đêm khuya như chó sói; thế mà lúc lên giường chồng lại còn bảo “Ê, con bò cái, nằm xích vào!”. (Nguồn: [4, 380-381]).

Phân tích: “Sóc”, “hươu”, “khỉ”, “chó sói”, “bò cái”,… là những con vật mà người phụ nữ dùng để so sánh với công việc của mình hàng ngày. Ý nghĩa của trường các con vật này, là lối vật hóa (cách tu từ xem người như vật), để nói lên sự vất vả như con vật của bản thân.

- Truyện “Thà tao đẻ ra cái bắp cải luộc ăn còn mát ruột hơn đẻ ra mày!”, kể việc mắng con của một bà bác sĩ. Lời mắng ấy là: “Mày học hành thế à? Óc bã đậu, chỉ được cái to đầu thôi! Nói mãi mà tai như tai cối xay ấy! Mở miệng ra là gân cổ cãi lại!... Sáng mắt ra mà nhìn con người ta kia kìa: đi học về là luôn tay giúp gia đình, còn mày sểnh chân một cái là biến đi chơi... Thật là khổ cái thân tao, đầu tắt mặt tối, thắt lưng buộc bụng nuôi mày ăn học! Thử hỏi mày đã làm mát lòng cha mẹ được chút nào chưa?... Thà tao đẻ ra cái bắp cải luộc ăn còn mát ruột hơn đẻ ra mày!...”. (Nguồn: Báo Tuổi trẻ cười, tháng 11-1997).

Phân tích: Trong lời mắng, có “óc”, “đầu”, “tai”, “miệng”, “cổ”, “mắt”, “tay”, “chân”, “ruột”,..., là các bộ phận cơ thể mà người thầy thuốc luôn bận tâm. Đây là trường về các bộ phận thuộc cơ thể người, những thứ nhân vật bà bác sĩ khó thể nào quên. Rất có thể do chúng ăn sâu vào tiềm thức, nên lúc tức giận đã buột miệng nói ra! 

- Truyện “Đồng môn đồng khoai”, kể việc vợ một anh học trò hễ ra đến chợ là sà hết hàng quà nọ đến hàng quà kia. Một bạn học biết vậy, cất công đi theo chị ta suốt buổi chợ, thấy coi ăn gì thì chép vào một tờ giấy. Tan chợ, chị mua cho cha mẹ chồng một chục hồng, nhưng dọc đường về cứ lẩm bẩm, ông năm bà bốn, ông bốn bà ba,...; cuối cùng, cũng ăn hết. Khi chị chàng về gần đến đầu làng, anh bạn đón đường, trao cho tờ giấy, và bảo: “Đây là giấy thu tiền đồng môn, nhờ chị đưa về cho anh”. Đến nhà, chị trao giấy cho chồng, vùng vằng: “Nay đồng môn, mai đồng khoai, tiền mô cho lại!”. Anh chồng đọc xong, cười bảo: “Nhà ơi, không chỉ đồng môn, đồng khoai, mà còn mít dai, bánh tráng, bánh náng (nướng), bánh khúc, bánh đúc cá kho, lòng bò quẹt ruốc,...; với lại, một bước một quả hồng nữa!”. Chị vợ mặt đỏ nhừ, vội lủi vào bếp! (Nguồn: [3, 344345/quyển II).

Phân tích: “Môn” (khoai sọ), cùng trường nghĩa với khoai (môn được nấu/luộc để ăn độn, lắm khi ăn thay cơm, như khoai - tục ngữ nói “Được mùa chớ phụ môn khoai”). Nhưng “đồng môn” (từ ngữ Hán Việt) là cùng học một thầy thời phong kiến, không cùng trường nghĩa với “đồng khoai” (tổ hợp từ tự do, hiểu như đồng tiền trả cho việc mua khoai); có thể nói “đồng khoai” được nêu để giả cùng trường nghĩa với “đồng môn” - vấn đề sắp được xem xét, ở tiểu mục sau. Mẩu truyện nhằm phê phán thói ăn hàng vặt của nhân vật chị vợ ngày trước. Các thứ mà chị này ăn là: “mít dai”, “bánh tráng”, “bánh náng”, “bánh khúc”, “bánh đúc”, “cá kho”, “lòng bò quẹt ruốc”,... Chúng thuộc trường chỉ các món hàng ăn có bán ở chợ.

- Truyện “Tạm biệt Mối tình nồng thắm của em!”, kể về hai anh chị, một mày râu (MR), một áo dài (AD), đều yêu thích nghệ thuật điện ảnh, sân khấu, gặp nhau. MR: “Chào Mắt vàng”! AD: “Chào Trung Hoa anh hùng! Đi đâu vậy?”. MR: “Tôi đi qua Xóm vắng. Nhà em đâu?”. AD: “Bên dòng nước; còn nhà anh?”. MR: “Bên dòng sông Trẹm. Sao, hổm rày khỏe không?”. AD: “Sau những giấc mơ hồng, em vẫn lạc quan. Còn anh giờ làm gì?”. MR: “Ngôi sao cô đơn, em ơi!”. AD: “Thôi, đừng Lá sầu riêng nữa”. MR: “Cảm ơn Vĩnh biệt Cali nhe”. AD: “Chào tạm biệt Mối tình nồng thắm của em!” (Nguồn: Báo Mực tím, ngày 21/5/1998).

Phân tích: Trường chỉ tác phẩm nghệ thuật điện ảnh, sân khấu,..., đã sáng tác, dàn dựng vào cuối thế kỷ trước: Mắt vàng, Xóm vắng, Bên dòng nước, Ngôi sao cô đơn,..., chúng được kể gián tiếp. Nói gián tiếp, vì tất cả chúng được nêu ra dưới dạng ngữ hay tổ hợp từ tự do, phù hợp/thuận với ngữ cảnh. Thí dụ, câu “Chào tạm biệt Mối tình nồng thắm của em!”, thì Mối tình nồng thắm vừa chỉ đối tượng mà AD đang giao tiếp (tức nhân vật MR trong cuộc hội thoại), vừa chỉ tác phẩm nghệ thuật Mối tình nồng thắm (3).

2.2. Việc sử dụng hiện tượng giả cùng trường nghĩa để gây cười, trong truyện cười

- Truyện “Thiên lôi là... mìn treo trên trời!”, kể việc chuyện trò giữa hai bố con. Con hỏi bố: “Bố ơi địa lôi là gì ạ?”. Bố: “Là loại mìn chôn dưới đất”. Con: “Thế thủy lôi?”. Bố: “Là loại mìn thả dưới nước”. Con: “Còn thiên lôi thì sao hả?”. Bố: “À, có lẽ là loại mìn... treo trên trời!”. (Nguồn: [7, 407]).

Phân tích: “Thiên lôi”, về ngữ âm có dáng dấp của trường “địa lôi”, “thủy lôi” (chỉ các thứ mìn). Nhưng “thiên lôi” không phải là một loại mìn mà chỉ thần Sấm Sét, hay tính chất hung tợn của con người. Nó giả cùng trường nghĩa với “địa lôi”, “thủy lôi”, chứ không cùng trường nghĩa với chúng.

- Truyện “Con thầy là... sư tử!”, kể chuyện đối đáp giữa thầy và trò. Thầy hỏi học trò: “Con vua gọi là gì?”. Trò: “Thưa thầy, hoàng tử”. Thầy: “Thế con quan?”. Trò: “Thưa thầy, công tử”. Thầy: “Còn con thầy?”. Trò: “Thưa thầy, sư tử”. (Nguồn: [7, 408]).

Phân tích: “Sư tử” tuy có thể hiểu là con thầy, nhưng không mấy ai nói như vậy. Cho nên, “sư tử” không thuộc trường với “hoàng tử”, “công tử”, mà thường dùng để chỉ con sư tử, một mãnh thú, có khi chỉ tính khí hung tợn (hay khi nổi tam bành) của đàn bà, con gái (bấy giờ, đặt vào một số tổ hợp, như: “sư tử cái”, “sư tử Hà Đông”,...).

- Truyện “Cao ốc là... cao của loài ốc!”, kể việc cô gái sau khi tiễn người yêu xong, đã nói với mẹ: “Anh ấy tuy có tuổi, nhưng lại có cao ốc đấy, mẹ ạ!”. Bà mẹ giãy nảy: “Trời đất! Cao gấu, cao trăn mà còn chẳng ăn ai, chứ cái thứ cao ốc ấy thì báu gì?”. (Nguồn: Báo Lao động, ngày 3/11/2001).

Phân tích: “Cao ốc” (Từ Hán Việt, nghĩa: nhà cao tầng), ở lời của bà mẹ, trở thành “cao của loài ốc”, để giả cùng trường với “cao gấu”, “cao trăn” (các vị thuốc, ở dạng cao)! Nói “cao ốc” là “cao của loài ốc”, một thứ cao không có trong thực tiễn, nếu có thì cũng chẳng quý báu gì (so với cao gấu, cao trăn), bà mẹ đã giễu cợt đứa con gái hám của.

- Truyện “Ngôi nhà ngàn sao!”, kể việc một ông cán bộ tỉnh đi công tác ở một xã vùng đầm phá, phải ở lại qua đêm. Thấy ông ta tỏ vẻ lo lắng về nơi ăn chốn ngủ, một viên chức của xã nói: “Xin anh yên tâm, ở thành phố chỉ có khách sạn ba sao, năm sao; còn ở đây, anh sẽ tận hưởng cái thú vị của ngôi nhà ngàn sao!”. Thấy ông khách tròn mắt ngạc nhiên, viên chức nọ tiếp lời: “Em sẽ lấy thuyền chèo ra phá(4), chúng ta cùng uống rượu, xong ngả lưng lên sàn mà ngủ với sao trời!”. (Nguồn: [7, 409]).

Phân tích: “Ngàn sao” chỉ ngàn vạn ngôi sao trên bầu trời, giả cùng trường nghĩa với “ba sao”, “năm sao” (là những từ ngữ dùng trong việc phân loại khách sạn, dựa theo mức độ tiện nghi), nhằm để đùa vui.

- Truyện “Chúng em thì bổ ngửa!”, kể việc trò chuyện trong trường. Học sinh A: “Cô thì phân tích theo cách bổ dọc”. Học sinh B: “Thầy thì lại bổ ngang”. Một thầy giáo đi ngang qua, nghe được những lời than phiền ấy, hỏi: “Vậy các em thấy thế nào?”. Học sinh: “Chúng em thì bổ ngửa chứ còn sao nữa!”. (Nguồn: [7, 410]).

Phân tích: “Bổ ngửa” (ngã ngửa) là “hết sức ngạc nhiên, sửng sốt trước sự việc mà chủ quan không thể ngờ được rằng lại có thể xảy ra” [2, 645]. Nghĩa ấy không có quan hệ với “bổ dọc”, “bổ ngang”, là hai thuật ngữ dùng trong phân tích tác phẩm văn học. “Bổ ngửa” xuất hiện theo cách giả cùng trường với “bổ dọc”, “bổ ngang”, cho thấy học sinh không hiểu vấn đề, và tỏ ra thiếu tích cực.

- Truyện “Chỉ sợ cái chân phụ”, kể việc anh nọ đang tìm hiểu một cô gái ở nông thôn. Là người đứng đắn, mỗi khi muốn đưa cô gái đi đâu, anh không quên xin phép bố mẹ cô ta. Hôm ấy, anh đến, gặp ông bố người yêu, thưa: “Tối nay, xin phép bác cho cháu đưa em đi xem kịch”. Ông bố nói: “Không kịch kiếc gì hết! Ai biết anh đưa nó đi xem hay đưa đến đâu đó, để nhỡ nó ễnh cái bụng lên thì chết tôi à...”. Anh chàng phát hoảng, vội thanh minh: “Dạ, sao lại dám vậy ạ? Thưa bác, chúng cháu phải giữ cho nhau... Tình yêu của cháu là tình yêu chân chính ạ”. Ông bố cười, nói: “Tôi có sợ cái chân chính của anh đâu. Tôi chỉ sợ cái chân phụ của anh thôi. Cái chân chính thì anh giữ được, còn chân phụ,... làm sao anh giữ nổi?”. (Nguồn: [4, 20-21], tên truyện “Chân chính, chân phụ”).

Phân tích: “Chân chính” là một từ được hiểu như ngay thẳng, đường hoàng, cùng âm với tổ hợp tự do “(cái) chân chính”, để đi đứng, phân biệt với “chân phụ”, không có chức năng ấy. Ở đây, hoặc “(cái) chân chính”, và “chân phụ” đã giả cùng trường với “chân chính” (ngay thẳng,…), hoặc nếu cho “(cái) chân chính” là một thực thể được thừa nhận, thì “chân phụ” (được hiểu là cái ấy của nam giới), đã giả cùng trường với nó. Việc giả cùng trường ở truyện đang đặt ra, là để tiện đề cập (một đối tượng tế nhị) và phê phán đối tượng ấy. 

- Truyện “Khoái tựu trường hơn”, kể việc ba cán bộ ngành giáo dục ngồi nói chuyện phiếm. Một ông: “Tôi khoái Lam Trường, ca hay “dữ dằn”, nghe nói một đêm kiếm được cả chục triệu đồng...”. Một bà: “Tôi thì khoái Đan Trường, đã ca hay mà lại đẹp trai nữa”. Ông thứ ba: “Còn tôi, tôi khoái... tựu trường hơn. Tới đó, nội ba cái sổ vàng, sổ đỏ, rồi phụ thu,... là mình thấy đã khoẻ, khỏi cần hát xướng chi cho mệt!”. (Nguồn: Báo Tuổi trẻ cười, tháng 9/2001).

Phân tích: “Tựu trường” (khai giảng khóa học mới), không có quan hệ gì về nghĩa với Lam Trường, Đan Trường (tên hai nam ca sĩ). Người nói đem nó giả nhập cùng trường với các ca sĩ, để trêu đùa (truyện phản ánh việc lạm thu của các trường, đang là vấn đề thời sự).

- Truyện “Điện phân là gì?”, kể cuộc chuyện trò của hai bố con. Cậu con trai hỏi bố: “Bố ơi, “điện hoa” là gì hở bố?”. Ông bố: “Điện hoa là điện mang những lời chúc, quà tặng như là hoa, bưu thiếp,...”. Con trai: “Thế vậy thì... “điện phân” là gì?”. Ông bố cứng miệng, không nói gì. (Nguồn: Báo Tuổi trẻ cười, tháng, 3/1997).

Phân tích: “Điện hoa” cùng “điện báo”, “điện chuyển tiền”,..., lập thành một trường (trường chỉ một bộ phận công việc quan trọng của ngành bưu chính viễn thông). “Điện phân” (thay đổi thành phần hóa học của một dung dịch, khi cho dòng điện một chiều đi qua), không thuộc trường ấy. Khi không coi “điện phân” là thuật ngữ hóa học, thì nó nhằm “bắt bí” lời giải thích về “điện hoa”; bởi nếu chấp nhận cách giải thích như vậy thì với “điện phân”, cùng dạng về cấu tạo, phải nói ra sao? Thật ra, không có từ “điện phân” trong ngành viễn thông, nên nó là từ giả cùng trường với “điện hoa”, “điện chuyển tiền”,...

- Truyện “Vạc đồng với cò đồng”, kể việc một tốp học trò mượn bà hàng cơm cái vạc để thổi cơm. Hôm sau, họ mang cái đến trả. Bà hàng kiện lên quan. Nghe bọn học trò trình bày, quan phán: “Mượn cái vạc, trả cái cũng được chứ sao!”. Bà hàng tức quá, kêu lên: “Nhưng vạc của con là vạc đồng”. Bọn học trò ranh mãnh đáp: “Bẩm quan, cò của chúng con cũng là cò đồng, đâu phải cò nhà ạ”. (Nguồn: [5, 79]).

Phân tích: Mấy anh học trò mượn cái vạc (vạc nấu cơm), rồi mang cái cò (một loài chim) đến trả, tức dựa vào sự gần gũi giữa cò và vạc (ca dao: “Cái cò, cái vạc, cái nông; Ba cái cùng béo, vặt lông cái nào?”), để giả nhập cái vạc thổi cơm cùng trường với cò, vạc, nông (trên cơ sở cùng âm). Khi bị bà hàng nêu vạc của bà ta là “vạc đồng” (vạc bằng chất liệu đồng) để bẻ lại, thì họ nhanh chóng gọi tên “cò đồng” (cò ở đồng ruộng), thuộc trường “le đồng”, “diệc đồng”, “gà đồng”,... khiến “vạc đồng” cũng bị thu hút vào trường này. Cách giả cùng trường ở đây, nhằm đánh lừa quan xử kiện.

- Truyện “Bát canh hương án”, kể việc có một người, hôm nọ đến nhà bạn chơi. Bạn thết cơm, có một bát canh kiệu, ăn lấy làm thích miệng lắm. Lúc về nhà, người ấy kể lại với vợ. Người vợ chẳng biết “kiệu” là gì, nhưng cũng ra mặt thạo, nói rằng: “Tưởng cái chi chứ canh kiệu thì khó gì!”. Sau đó ít lâu, bạn sang chơi nhà, phải thết cơm giả. Chồng ngồi nói chuyện với bạn ở trên nhà, vợ lúi húi dưới bếp. Chị ta tấp tểnh muốn bắt chước nấu canh kiệu. Nhưng kiệu là cái chi? Có lẽ nó là cái kiệu thật. Chị chàng nghĩ vậy, bèn cầm dao lon ton chạy ra ngoài đình, định nạo ít kiệu đem về nấu canh. Song ra đình chẳng thấy kiệu đâu, chỉ có mỗi cái hương án. Chị chàng bụng lại bảo dạ rằng: “Hương án thì cũng như kiệu, chứ gì!”. Rồi ra sức nạo ít mùn hương án đem về nấu canh, lấy làm đắc chí lắm. Bát canh hương án, chồng với bạn chồng nuốt sao trôi được? Ngao ngán quá, đợi lúc bạn về rồi, chồng hằm hằm vào tra hỏi là bát canh gì, rồi đánh vợ một trận nên thân. Vợ đau quá, vừa khóc vừa ví rằng: “Người ta canh kiệu thì ngon/ Tôi canh hương án, thì đòn vào lưng!”. (Nguồn: [3, 215-216/quyển I]).

Phân tích: “Kiệu” cùng trường với “hành”, “tỏi”, “hẹ”,... Nó cùng âm với “kiệu” (đồ dùng để rước thần thánh, có mái che và ghế ngồi). Và “kiệu” ấy cùng trường nghĩa với “hương án”. Nhân vật chị vợ đã biết trường nghĩa này, nhưng lại không nắm được trường nghĩa kia, khiến cho bát canh bị hỏng, mình thì bị chồng đánh cho. Cách giả cùng trường ở đây cũng như truyện trước, là dựa vào cùng âm, nhằm để cười chê chị chàng: không biết lại làm ra mặt thạo!

3. Nhận xét, kết luận


3.1. Khi sử dụng các yếu tố làm nên tập hợp các từ cùng trường một cách xác thực, cụ thể, và gọi đó là lối cùng trường nghĩa trực tiếp, cũng như khi các yếu tố được hình thành theo lối cùng âm hay nước đôi về nghĩa, được gọi là lối cùng trường nghĩa gián tiếp, thì truyện cười sử dụng hiện tượng cùng trường nghĩa, có thể là trực tiếp hay gián tiếp(5). Với bốn truyện được dẫn (ở bộ phận đầu), ba truyện trước nêu trực tiếp, truyện sau cùng nêu gián tiếp.

Giả cùng trường nghĩa là cách đưa một từ ngữ vào một trường không có quan hệ về nghĩa với từ ngữ này, nhưng hình thức ngữ âm của từ ngữ giả cùng trường là gần gũi (với trường hợp từ ngữ đa tiết, thường có một yếu tố cùng âm). Có thể ví từ giả cùng trường như một kẻ mạo danh, trà trộn vào một tổ chức, đội ngũ, sau khi đã hóa trang, để đối phương khó phát hiện.

So với cùng trường nghĩa, thì hiện tượng giả cùng trường nghĩa thường tạo ra điều mới lạ, dễ gây cười hơn, nên được sử dụng nhiều hơn (ở bảng, là gấp 2,5 lần)

3.2. Với truyện cười, các nhà nghiên cứu thường quan tâm đến đối tượng đáng cười (cười về cái gì?) và biểu hiện gây cười (vì sao mà cười?), với lưu ý: có cười đã mới xem xét lí do. Vậy với các nội dung vừa nêu ở sự việc đang bàn ra sao? Đối tượng đáng cười ở đây là việc sử dụng hiện tượng cùng trường nghĩa giả cùng trường nghĩa (nếu có nhân vật tiêu cực đi kèm với hiện tượng này, thì đồng thời phê phán nhân vật ấy), còn biểu hiện gây cười là việc biểu thị cụ thể của mỗi hiện tượng kia. Chẳng hạn, với truyện “Ê, con bò cái!” (nhóm đầu), đối tượng đáng cười là việc sử dụng hiện tượng cùng trường nghĩa, một cách “vật hóa” mình để than vãn của người phụ nữ trong truyện; biểu hiện gây cười là lời của người chồng (nhân vật phụ) ở cuối truyện: “Ê, con bò cái, nằm xích vào!”. Với truyện “Bát canh hương án” (nhóm sau), đối tượng đáng cười là việc giả cùng trường nghĩa, kèm theo chuyện chị vợ nọ đã không biết “kiệu” là gì lại tỏ ra thành thạo, đến nỗi đã biến “kiệu” (cây thân thảo, cùng trường với “hành”, “tỏi”, “hẹ”,...) thành vật dùng để đón rước thần linh (cùng trường với “hương án”), và đã lấy ít mùn của hương án, là chất sơn và gỗ, đem về nấu canh (!); biểu hiện gây cười, là khi bị chồng đánh (do việc làm kém cỏi kia), ả ta đã khóc bằng lời ví rằng: “Người ta canh kiệu thì ngon/ Tôi canh hương án, thì đòn vào lưng!”.

3.3. Tìm hiểu việc sử dụng hiện tượng cùng trường nghĩa giả cùng trường nghĩa ở truyện cười dân gian người Việt, là một nghiên cứu có tính chất ứng dụng, giúp nắm hiểu thể loại truyện này một cách thấu đáo hơn; đồng thời, vấn đề có thể có đóng góp ít nhiều cho những người yêu thích tiếng Việt. 

T.N
(TCSH44SDB/03-2022)

 

___________________

Chú thích

(1) Cùng nghĩa: như đồng nghĩa. Sở dĩ sử dụng cùng nghĩa, vì để tương ứng với thuật ngữ cùng trường nghĩa trong bài.

(2) Nhạt: (Màu sắc) không đậm bằng màu bình thường, tựa như vẽ hoặc nhuộm bằng màu pha loãng. Áo màu xanh nhạt. Ánh đèn vàng nhạt. Vôi quét chỗ đậm chỗ nhạt. Áng nắng nhạt dần (nghĩa thứ 2 trong 4 nghĩa). Sẫm: (Màu sắc) đậm và hơi tối.

Đỏ sẫm. Tím sẫm - [683 & 822]. Tức “nhạt” và “sẫm” không chỉ màu nào.

(3) Phim tình cảm Trung Quốc, ra đời năm 1995, dài 30 tập, chiếu trên SCTV9.

(4) Phá: vùng nước lợ, nằm ven bờ, thông ra cửa biển, nơi có nhiều tôm cá.

(5) Ở thể loại câu đối, khi một trong hai vế sử dụng hình ảnh theo hình thức cùng âm, hình thức nước đôi về nghĩa để đối lại một từ ngữ dùng lối tường minh của vế tương ứng, được gọi là “xuất đối”.


Tài liệu tham khảo, trích dẫn chính


1. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

2. Hoàng Phê (Chủ biên) (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội.

3. Nguyễn Chí Bền (Chủ biên) (2014), Truyện cười dân gian người Việt, 5 quyển, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Nguyễn Cừ (2007), Truyện cười Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội.

5. Nguyễn Đức Dân (1987), Lô gích, ngữ nghĩa, cú pháp, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

6. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

7. Triều Nguyên (2004), Nghệ thuật chơi chữ trong văn chương người Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

 

 

 

Các bài mới
Các bài đã đăng