Nghiên Cứu & Bình Luận
Một số nhận xét về Kim Vân Kiều truyện với Đoạn trường tân thanh
09:37 | 18/11/2025


      NGUYỄN THẠCH GIANG
TRIỆU NGỌC LAN - LÒ ÚY THU
(*)

Một số nhận xét về Kim Vân Kiều truyện với Đoạn trường tân thanh
Ảnh: tư liệu

Lời giáo sư Nguyễn Thạch Giang:

Bài viết về một vấn đề thời sự: Đầu năm 93, giáo sư Đới Khả Lai, một nhà học giả Nhật Bản phát biểu ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội trực tiếp đề cập đến Thanh Tâm Tài Nhân và có ý cho Nguyễn Du chỉ có công dịch cuốn "Kim Vân Kiều truyện" mà hiện nay ở Trung Quốc và Nhật Bản đều có in lại. Hôm nói chuyện tôi không dự.

Nhân vừa rồi tôi có dịp đi thăm một số trường Đại học lớn của Trung Quốc, đề tài của bài báo cũng là một trong những đề tài đưa ra tranh luận ở Đại học Bắc Kinh, Thiên Tân, Quảng Đông... ở khoa Đông Phương học trường Đại học Bắc Kinh, họ ủng hộ ý kiến của tôi hoàn toàn. Có hai giáo sư cùng viết bài chia sẻ ý kiến, bày tỏ sự đồng tình. Và nhân có một nghiên cứu sinh Nhật Bản, học trò của tôi về lịch sử văn bản truyện Kiều có mang cho tôi một bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân in ở Nhật. Bản in mới nhất ở Trung Quốc tôi cũng có... Thế là bài viết được viết chung... cũng để giới thiệu với Tạp chí Sông Hương những người bạn tốt Trung Quốc Nhật Bản.

                                 20-10-1993
                                 N.T.G.

 

Như mọi người đều biết, Đoạn trường tân thanh (ĐTTT) của Nguyễn Du được sáng tác theo Kim Vân Kiều truyện (KVKT) của Thanh Tâm Tài Nhân (TTTN), vì vậy, phần nào là phần sáng tạo của Nguyễn Du, phần nào là theo ý của TTTN? Điều đó cho đến nay vẫn chưa được giải quyết một cách cụ thể và triệt để. Sự không hoàn toàn nhất trí trong việc đánh giá Nguyễn Du do đấy mà có.

Công việc đó cần phải dựa trên sự so sánh đối chiếu hai tác phẩm để rút ra những số liệu cụ thể mới định giá được. Chỉ có thể làm như thế chúng ta mới có thể tránh được những nhận định phiến diện, chủ quan.

Công việc sẽ phức tạp có nhiều khó khăn. Và, sau đây là kết quả cụ thể:

Bảng thống kê so sánh KVKT với ĐTTT:



Các thành phần khác: 1.022

Mấy điu thuyết minh cn thiết:

+ Trong khi đối chiếu, chúng tôi tính: Về phía KVKT sẽ bao gồm cả bài tựa của Thiên Hoa tàng chủ nhân, lời bình đại ý đầu mỗi hồi, nội dung của 20 hồi cùng với tất cả các bài thơ xướng họa ở mỗi hồi. KVKT, chúng tôi căn cứ vào quyển KIM VÂN KIỀU, Thanh Tâm Tài Nhân biên thứ, Lý Trí Trung hiệu đim, Xuân Phong Văn nghệ xut bn xã là tài liệu mới ấn hành trong những năm gần đây, phục vụ cho việc nghiên cứu Minh mạt Thanh sơ tiu thuyết.

+ Cột 1, ghi theo thứ tự 20 hồi của KVKT.

+ Cột 2, đối chiếu với số câu được diễn ra ở ĐTTT theo từng hồi của KVKT.

+ Các cột 3,4,5,6,7,8,9 ghi theo số câu. Đơn vị là câu.

+ Cột 10 ghi tính theo số trang của bản KVK 214 trang. Số ý Nguyễn Du lược đi được tính theo dòng mà lấy tỉ lệ: Nguyễn Du lược đi 142 trang, tức là đúng 2/3 quyển KVK.

+ Cột 12 ghi tính theo từng tư tưởng cụ thể, ví dụ: “Âu đàng quả kiếp nhân duyên, nhân quả dở dang, hay Túc nhân âu cũng có trời ở trong..”

+ Cột 13, ghi những tư tưởng tiến bộ, ví dụ “nhân định thắng thiên”, “trong tay đã sẵn đồng tiền”, “chẳng qua đồng cốt quàng xiên”...

+ Các cột 11,12,13 cũng chỉ ghi những điều do Nguyễn Du viết ra.

+ Những số liệu thống kê ở Bảng chỉ có thể bảo đảm khả năng gần đúng tối đa.

Từ những số liệu trên đây, chúng ta có thể rút ra những nhận xét gì?

Một là, Nguyễn Du đã lược bỏ đi hai phần ba cuốn truyện. Cụ thể, ông đã loại 142 trang trên tổng số 214 trang cuốn KVKT. Ông chỉ giữ lại 72 trang bao gồm cả những ý trong bài tựa, trong những lời bàn đầu mỗi hồi và trong cả hai mươi hồi của KVKT. Nguyễn Du đã lấy bấy nhiêu điều đó mà viết thành 1.313 câu trong tổng số 3.254 câu của ĐTTT.

Hai là, 1.941 câu còn lại là do công lao của Nguyễn Du viết ra. Từ sự thực đó nói lên một cách rõ ràng rằng: Truyện Kiều không phải là một tác phẩm dịch. Dịch và viết bao giờ cũng là hai truyện khác nhau. Điều đó có lý do của nó. Bởi vì ngôn ngữ chỉ là công cụ của nhà văn, nhà thơ dùng để diễn đạt một nội dung nào đấy qua một số hình tượng nào đấy trong một tác phẩm văn học. Cái vĩ đại, cái chủ yếu của một tác phẩm văn học chính là nội dung cùng với cả hệ thống hình tượng của nó được diễn tả, được xây dựng nên bằng một ngôn ngữ tương ứng. Không có cái nội dung được diễn tả qua hệ thống hình tượng ấy, thì ngôn ngữ - hay nói một cách nôm na, thì văn có bóng bẩy đến đâu cũng không sao gọi là hay được.

Nguyễn Du đã dựa theo cốt chuyện KVKT của TTTN và sáng tạo ra một thi phẩm lớn với một nội dung, một hệ thống hình tượng riêng của mình. Nguyễn Du đã có biệt tài trong việc sử dụng ngôn ngữ kể chuyện của tác giả. Nhờ sử dụng phương tiện này mà chúng ta thấy được thái độ của Nguyễn Du đối với nhân vật, đối với các hiện tượng miêu tả, thấy được cuộc sống nội tâm của nhân vật. Ở KVKT, ngôn ngữ kể chuyện của tác giả không được sử dụng chặt chẽ và vừa phải, cho nên cuộc sống nội tâm của nhân vật cũng nghèo nàn vì không có một cuộc sống thực, một cuộc sống nghệ thuật, ví dụ ba lần Kiều đi tu:

- Lần thứ nhất, ở Quan âm các: TTTN chỉ nói có một câu: Từ đó Thúy Kiều an tâm sao chép kinh quyển ở trên lầu (sách đã dẫn, tr. 145). Ở ĐTTT, Nguyễn Du kể:

Nâu sòng từ trở màu thuyn.
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu
Quan phong then nhặt lưới mau,
Nói lời trước mặt rơi châu vắng người.
Gác kinh viện sách đôi nơi,
Trong gang tc lại gp mười quan san.

- Lần thứ hai, ở Chiêu ẩn am: TTTN chỉ kể về Thúy Kiều (sau khi nghe Giác Duyên nhận Thúy Kiều làm chị em tu hành) Thúy Kiều nghe nói liền tương kế tựu kế, bái nhận ngay Giác Duyên làm đạo huynh. Hai người rất ý hợp tâm đầu (tr. 151). Nguyễn Du kể:

Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,
Hương đèn việc trước trai phòng quen tay.
Sớm khuya lá bối phiến mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt tiếng chày nện sương.

- Lần thứ ba, ở thảo lư bên sông Tiền Đường: TTTN kể: (Giác Duyên) bèn bảo nhà chài nhân lúc đêm tối, chèo thuyền đến trước am, rồi lén dắt Thúy Kiều vào đó ẩn náu, không để một người nào được biết (tr. 199). Nguyễn Du kể:

Một nhà chung chạ sớm trưa,
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
Bốn bề bát ngát mênh mông,
Triu dâng hôm sớm mây lồng trước sau.

Qua ba ví dụ so sánh trên đây, chúng ta thấy cũng là việc Thúy Kiều đi tu, nhưng TTTN và Nguyễn Du, mỗi người có thái độ một khác. TTTN thì hầu như bàng quan, còn Nguyễn Du thì xót xa thao thức cho người đi tu mà lòng còn nặng với thế tục. Với lời kể của Nguyễn Du, chúng ta thấy cuộc sống nội tâm của nhân vật phong phú biết bao. Đi tu mà lòng vẫn xót xa cho thân phận của mình:

Quan phòng then nhặt lưới mau,
Nói lời trước mặt rơi châu vng người.

Đi tu mà lòng vẫn nặng trĩu những đâu đâu:

Sớm khuya lá bối phiến mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt tiếng chày nện sương.

Đi tu mà lòng vẫn bâng khuâng buồn man mác:

Bốn b bát ngát mênh mông,
Triều dâng hôm sớm mây lng trước sau.

KVKT của TTTN còn có tên là Song kỳ mộng, khi mới ra đời nó đã bị quên đi, ít ai nhắc đến. Còn ĐTTT của Nguyễn Du, gần hai trăm năm nay chiếm một vị trí rực rỡ trong lịch sử văn học Việt Nam. Điều đó thì đã rõ.

Tại sao Kim Vân Kiều truyệnĐoạn trường Tân thanh có hai số phận khác nhau ấy? Điều đó không thể chỉ giải thích vì ngôn ngữ, vì văn chương họ Nguyễn hay hơn văn chương Thanh Tâm Tài Nhân; hay vì Đoạn trường Tân thanh là một bài thơ dài, còn Kim Vân Kiều truyện là cuốn truyện văn xuôi. Nó chỉ có thể giải thích được bằng cái nội dung với những hình tượng được xây dựng của tác phẩm; hay nói một cách khác, nó chỉ có th giải thích được bằng sự sáng tạo của Nguyễn Du trên cơ s nhào nặn lại cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mà xây dựng những bức tranh sống của xã hội có một nội dung phong phú sâu sắc.

Từ đó, chúng ta có một nhận xét thứ ba nữa là: Nguyễn Du đã tỏ ra rất tài tình khi ông sử dụng tất cả những gì trong cuộc sống có liên quan đến con người để xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật đẹp đẽ như: thiên nhiên, cuộc sống nội tâm của con người: nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, băn khoăn về cuộc đời, rạo rực yêu đương và cả đến những tâm lý ghen tuông. Tất cả những cái đó được diễn tả bằng một ngôn ngữ thơ ca điêu luyện hầu như thâu góp bằng hết mọi tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc.

Thiên nhiên trong Kim Vân Kiều truyện hầu như vắng vẻ. Nếu có cũng chỉ thấy mờ nhạt, rời rạc, loáng thoáng năm bảy lần qua một số bài thơ của Thúy Kiều, hay một đôi lần qua lời kể lướt của Thanh Tâm Tài Nhân. Còn ở Đoạn trường Tân thanh, thiên nhiên đi về đó đây khắp cả cốt truyện. Phong cách thiên nhiên xây dựng nên ở đây bao giờ cũng gắn chặt với cuộc sống của con người. Qua thiên nhiên, chúng ta có thể hình dung được tâm sự của nhân vật. (Trong Đoạn trường Tân thanh mùa thu là mùa được Nguyễn Du nhắc đến nhiều nhất. 15 lần nhắc đến mùa thu, nhưng mỗi lần mỗi vẻ (ấy là bởi tâm trạng của nhân vật khác nhau):

- Một buổi đầu thu man mác, cô đơn của người đi kẻ ở:

Buồn trông phong cảnh quê người
Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa.

- Một mùa thu bâng khuâng, xót xa, thao thức, khi về trú phường với Mã Giám sinh:

Đêm thu một khc một chy,
Bâng khuâng như tỉnh, như say một mình

- Trên đường về Lâm-chuy với họ Mã, thì mùa thu ấy trở nên lẻ loi, “buồn điệp điệp”, nặng trĩu những nhớ nhung:

Vi lô san sát hơi may.
Một trời thu để riêng ai một người!

- Hay một mùa thu tươi sáng, rạo rực, nhẹ nhõm mà vẫn có một cái gì bùi ngùi vướng víu trong tâm tư trên đường trở lại với người yêu sau một năm xa cách:

Long lanh đáy nước in trời, Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.

Và, cả 11 mùa thu khác còn lại, 5 cảnh mùa xuân, 5 cảnh mùa hè được mô tả trong Đoạn trường Tân thanh cùng mỗi mùa một cảnh, mỗi cảnh một vẻ như thế. Thiên nhiên trong Đoạn trường Tân thanh còn có những chuyện khác nữa, không phải chỉ có mùa thu và mùa hè... Song, ở đây chỉ nêu lên khía cạnh này cũng đủ thấy rõ rằng những bức họa phong cảnh, với Nguyễn Du là những tác phm nghệ thuật có quan hệ mt thiết đến thái độ của con người, đến tâm lý, đến cuộc sống của con người. Mô tả nó là làm cho cuộc sống của con người toàn diện hơn, và qua việc mô t mà chúng ta hiểu được con người toàn diện hơn.

Trong Kim Vân Kiều truyện, thiên nhiên nếu có thì chỉ có tính cách là người kể kể lại, ghi lại thời gian, chứ chưa phải là một bức tranh nghệ thuật. Ví dụ, khi nói đến khung cảnh thiên nhiên của buổi Thúy Kiều tắm, Thanh Tâm Tài nhân chỉ nói: "Một buổi chiều Kiều tắm xong, càng đẹp lộng lẫy..." (tr.95-105), chỉ có thế thôi, chứ không có ý nghĩa như thiên nhiên trong Đoạn trường Tân Thanh của Nguyễn Du:

Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông.

Một bức tranh về thiên nhiên, mà đồng thời cũng là một bức tranh về tâm lý, về tâm trạng của Thúc Sinh: có một cái gì rạo rực, thôi thúc, mà lại ngập ngừng e lệ, bâng khuâng. Nhịp điệu và âm thanh của những chữ "Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông" gây cho ta một cái gì thật khó nói...!

Còn đến những tâm lý yêu đương và cả những tâm lý ghen tuông của Hoạn Thư...

Tất cả đều khắc họa cho bức vẽ của nhân vật thành những hình tượng nghệ thuật sâu sắc. Tính cách của nhân vật ở đây được biểu lộ đầy đủ. Không như ở Kim Vân Kiều truyện, những trạng thái tâm lý của nhân vật thật hiếm hoi, và nếu có, thì cũng chỉ được để lại chứ không phải là diễn tả một cách hình tượng như ở Đoạn trường Tân thanh.

Đến như việc vẽ nên một cô Kiều tài tình trọn vẹn, một cô Kiều thông minh, có ý thức về quyền sống của mình mà bị đày đọa đủ điều, Nguyễn Du đã tỏ ra có tài sáng tạo khi diễn tả, hay nói một cách khác khi Nguyễn Du đóng vai người kể chuyện kể lại những nỗi băn khoăn về cuộc đời, về thân phận của cô.

Mở đầu cho một mối tình đang chớm nở, Thúy Kiều đã băn khoăn:

Người đâu gặp g làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không.

Rồi từ cái băn khoăn ban đầu ấy, những nỗi băn khoăn khác dồn dập tiếp theo tràn đến trong tâm hồn Thúy Kiều suốt trong mười lăm năm lưu lạc, khi say sưa với hạnh phúc bên cạnh người yêu:

Nghĩ mình phận mng cánh chuồn
Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay.

cũng như khi chán chường phải tiếp khách ở chốn thanh lâu:

Khi tnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa!

Và, ngay cả khi bên cạnh người anh hùng Từ Hải, sau cuộc báo ân báo oán, là lúc mà chúng ta tưởng chừng như đời Thúy Kiều không có gì phải băn khoăn nữa. Thế mà Thúy Kiều vẫn băn khoăn, khi nói với Giác Duyên:

Rồi đây bèo hợp mây tan,
Biết đâu hạc nội chim ngàn là đâu.

Tóm lại, với Đoạn trường Tân thanh, Thúy Kiều gần như lúc nào cũng băn khoăn, mà băn khoăn là phải. Thân phận của nàng Kiều, quyền sống của con người nói chung, ở đây mỏng manh quá! Nanh vuốt của xã hội cũ đang chực cấu xé lên họ.

Nói lên những nỗi băn khoăn ấy là công lao Nguyễn Du. Ở Kim Vân Kiều truyện, một đôi khi cũng có nói đến, hầu như chỉ mấy lần trong buổi hội ngộ ở nhà Kim Trọng. Song, có nói đến nhưng chưa phải là một dụng ý miêu tả để th hiện tính cách nhân vật, chưa phải là những băn khoăn có sức truyền cảm như ở Đoạn trường Tân thanh.

Thúy Kiều hầu như bao giờ cũng băn khoăn. Tâm trạng này chỉ thực sự chấm dứt ở nàng trong cuộc đại đoàn viên đầm ấm. Chúng tôi nghĩ, điều đó sẽ cắt nghĩa một phần nào việc khuyên Từ Hải ra hàng của Thúy Kiều.

Những tâm sự khác của Thúy Kiều, như nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, ở Kim Vân Kiều truyệnĐoạn trường Tân thanh cũng diễn ra với một mức độ khác nhau tương tự như những điều vừa nói ở trên, nghĩa là Nguyễn Du đã sáng tạo hẳn ra một bức tranh nhớ nhung khác phục vụ cho việc phản ảnh cuộc sống nhân vật.

Đoạn trường tân thanh, tâm sự này của Thúy Kiều đã diễn ra 7 lần tất cả. Lần đầu là lần trên đường đi Lâm-truy theo họ Mã, và lần cuối, khi người "trượng phu" Từ Hải từ biệt Thúy Kiều ra đi sau "nửa năm hương lửa đương nồng".

Lần đầu, ở Kim Vân Kiều truyện chỉ là một cái nhớ chung vì "chút tình si khôn rủ sạch", vì "thấy cảnh thương tình". Còn ở Đoạn trường tân thanh là cả một tâm trạng cô đơn buồn da diết, cánh cánh bên lòng lời thề thốt cũ, nặng trĩu trên vai cái bổn phận của kẻ làm con, khi lần đầu từ biệt cha mẹ ra đi:

Vi lô san sát hơi may,
Một tri thu để riêng ai một người.
Dặm khuya ngắt tạnh mù khơi,
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông!
Rừng thu từng biếc chen hồng,
Nghe chim như nhắc tấm lòng thn hôn.

Sáu lần khác cũng diễn ra với một tình hình tương tự. Chỉ trừ lần ở thanh lâu của Tú bà sau khi đã chịu nhận tiếp khách, lần ở nhà mẹ Hoạn thư, và lần cuối cùng khi Từ Hải ra đi là hoàn toàn không có ở Kim Vân Kiều truyện. Có một điều đáng chú ý là ở Đoạn trường tân thanh, bảy lần diễn tả tâm trạng này của Thúy Kiều, Nguyễn Du bao giờ cũng để cho Thúy Kiều nhớ cha mẹ, và nhớ cả người yêu. Năm lần Thúy Kiều nhớ Kim Trọng, hai lần nhớ Thúc Sinh, và lần cuối cùng Thúy Kiều nhớ Kim Trọng và nhớ cả Từ Hải.

Điều nhận xét này cho chúng ta nhận thấy rõ rằng: Nguyễn Du đã mô tả nhân vật của mình rất dụng công, trân trọng trong từng chi tiết, nhằm làm sao cho tính cách của nhân vật nổi bật lên.

Ở đây với 7 lần mô tả này, chúng ta thấy: một Thúy Kiều chung thủy, mối tình đầu của nàng với Kim Trọng là một mối tình bền chặt trong ngàn thu; một Thúy Kiều hiếu thảo, nỗi băn khoăn về bổn phận làm con còn canh cánh bên lòng chừng nào chưa đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ, chưa sum họp được với gia đình. Cái dụng công này trong việc miêu tả nhân vật ở Nguyễn Du thật lớn lao.

Một nhận xét thứ tư nữa là Nguyễn Du đã lược bỏ đi hai phần ba cuốn truyện, gồm những phần:

1. Tất cả các bài thơ xướng họa, những bài ghi lời thề thốt... đều được lược bỏ đi. Điều này có một ý nghĩa rất hay là một mặt nó làm cho chúng ta không phải khó chịu vì cái lối sính thơ của nhân vật, mà trái lại dẫn ta vào một địa hạt mung lung về cái "tài" và cái "tình" của nhân vật, đặc biệt là của Thúy Kiều. Do đó, ấn tượng về cái mà Mộng liên đường chủ nhân gọi là "cái thông lụy" xưa nay của kẻ văn nhân tài tử trở nên xót xa, đánh thức ở ta những biểu tượng về lý tưởng, làm cho ta khao khát một cái gì đẹp hơn, làm cho ta bất bình đến phát khóc với cái gì đã phũ phàng lên cái "tài", cái "tình" của con người.

Ví thử Nguyễn Du đem nguyên các bài thơ trong Kim Vân Kiều truyện vào Đoạn trường tân thanh, thì bấy nhiêu điều nói trên mất tất cả. Còn lại với ta một cô Kiều lắm lời, kém tài mà hay sính thơ. Tác dụng tư tưởng của cuốn truyện vì thế mà giảm đi. Một mặt khác, bỏ tất cả những bài thơ, những bài ghi lời thề thốt, tức là Nguyễn Du muốn vượt lên cách kết cấu thường thấy của các truyện nôm của ta, mà xây dựng cho nh một phong cách độc đáo cao hơn, hoàn thiện hơn về kết cấu và bố cục, mà cho mãi về sau, những người có tài như Nguyễn Thiện trong khi nhuận chính Hoa tiên, Phạm Thái trong khi viết Sơ kính tân trang cũng không sao theo kịp, cũng không sao thoát ra được cái phong cách thường thấy về kết cấu của truyện nôm.

2. Những lời đối đáp rườm rà, không giúp ích gì cho việc phát triển tính cách của nhân vật, nhất là những gì là thực thà, lề mề tự nhiên chủ nghĩa đều được lược đi hết. Như trong hồi 1, hồi 2, những lời đối thoại qua lại giữa ba chị em, nhất là sau khi Kim Trọng xuất hiện, Nguyễn Du đã bỏ hoàn toàn. Cả đến những hồi sau cũng tương tự như thế.

Nhờ sự tước bỏ này, mà bố cục của cuốn truyện chặt chẽ, tình tiết phát triển một cách tự nhiên, cân đối. Có thể nói: Nguyễn Du chỉ giữ lại những gì (kể cả những chi tiết rất nhỏ) là đặc trưng, là điển hình, có liên quan đến một mặt nào đó trong cuộc sống của nhân vật, giúp cho ta hiểu được tính cách (hay cá tính) của nhân vật.

3. Những gì có hại đến tính cách, đến nhân phẩm của các nhân vật như Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải(1), cả những lời lẽ dụ hàng của các thuyết khách của Hồ Tôn Hiến, lời Từ đáp lại tên Lợi Sinh(2), Nguyễn Du đều lược bỏ đi hết.

Điều này không những cho ta thấy rõ thái độ của Nguyễn Du mà còn cho ta thấy tư tưởng của Nguyễn Du đã có chỗ khác với thái độ và tư tưởng của Thanh Tâm Tài Nhân. Xuất phát từ đây, mà chủ đề hai cuốn truyện tuy có sự giống nhau bề ngoài, nhưng thực ra đã khác nhau từ trong căn bn.

Có thể nói được rằng: viết Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ vì cảm thương cái thân phận chìm nổi lênh đênh, trăm nghìn khổ ải của một người con gái phúc hậu, có tài có sắc mà phải chịu đày đọa đủ điều, "đã không gặp được cái vinh sống ở nhà vàng", lại bị bao "nỗi khổ nhục phũ phàng hất hủi". Viết Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm Tài Nhân cũng cốt để chứng minh một điều sở đắc: "Tạo hóa ghét sự hoàn toàn, hơn điều nọ tất phải kém điều kia, sinh được một phần hồng nhan, thì phải chịu mười phần đày đọa, có được một chút tài tình, lại phải gánh thêm mười phần nghiệp chướng" (tr.1).

Nội dung sự việc trình bày trong Kim Vân Kiều truyện cũng chỉ có nói lên cái tư tưởng cơ bản ấy. Câu chuyn Trời Mệnh - Nghiệp dĩ... ở Kim Vân Kiều truyện là một điều tất yếu, là một chân lý vĩnh cu cũng như câu chuyện "Tạo hóa ghét sự hoàn toàn.." không phải băn khoăn gì với bấy nhiêu điều đó.

Còn ở Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, mới nhìn qua, ta cũng có thể cảm tưởng như thế. Nhưng thực ra vấn đề lại khác. Mặt giống thì sâu sắc hơn nhiều, mặt khác thì khác từ căn bản. Cũng cảm cái số kiếp “bèo trôi sóng vỗ” của một Tiểu Thanh, nhưng cái cảm của Nguyễn Du ở Đoạn trưng tân thanh sâu sắc và da diết vô cùng xuất phát từ cuộc đời thực của tác giả:

Đoạn bồng nhất phiến tây phong cp
Tất cánh phiêu linh hà xứ quy?

(Gió tây tới tp tơi bời,
C bng một ngọn đâu nơi dạt về?)

Đó là hình ảnh thực của Nguyễn Du. Sóng gió của cuộc đời đường như chỉ có xô cuốn phũ phàng lên cả một thân người thi sĩ ấy! Chính vì có cái da diết đó, mà khi Nguyễn Du viết: "Đau đớn thay phận đàn bà!", nó có một sức truyền cảm sâu sắc như cấu xé lòng ta. Ta hình như còn nghe cả tiếng cười gằn mỉa mai chua xót khi Nguyễn Du viết tiếp: "Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung".

Cái cảm của Thanh Tâm Tài Nhân là cái cảm của người ngoài cuộc, đứng nhìn vào mà chạnh lòng thương, còn cái cảm của Nguyễn Du là cái cảm - mà cũng là nỗi xót thương khôn dứt, của chính người trong cuộc, của chính bản thân mình.

Do cái cảm này mà Nguyễn Du đã dồn cả sức mình trong việc xây dựng nhân vật Thúy Kiều, Đọc Đoạn trường Tân thanh, ln từng trang, hình ảnh một cô Kiều nết na thùy mị cứ đến với ta, làm cho ta băn khoăn mãi đến một điều là cái quyền sống của con người trong xã hội cũ. Cô Kiều đây không bao giờ làm phật lòng ta làm cho ta đôi lúc phải khó chịu như cô Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân.

Đoạn trường Tân thanh, Nguyễn Du cũng mở đầu bằng câu:

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau.

và:

Lạ gì b sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hng đánh ghen.

Sau đó, cái "Mệnh" này được nhắc đi nhắc lại. Và, không những chỉ có "Mệnh" mà có cả "Nghiệp" của nhà Phật! Nhưng, cái "Mệnh", cái "Nghiệp" và cả cái "Bỉ sắc tư phong" ở Nguyễn Du về thực chất lại có phần khác Thanh Tâm Tài Nhân, vì trong tư tưởng Nguyễn Du còn có ch băn khoăn, và ở một mức độ nào đấy còn có chỗ phân vân, dành dấu hi về bấy nhiêu điều đó.

Cái nội dung trực tiếp cả hai vấn đề là một cô Kiều "thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần", nhưng vì thái độ của tác giả khác nhau về nhân vật, về tình huống được miêu tả trong tác phẩm mà chúng ta có quyền rút ra những kết luận tự nhiên do hệ thống hình tượng của tác phẩm toát ra. Kết luận đó có th khác với ý định của tác gi.

Ở đây, thái độ trân trọng mối tình Thúy Kiều - Kim Trọng, thái độ xót xa tự đáy lòng với cuộc đời đày đọa của Thúy Kiều(3), thái độ bất bình đối với xã hội cũ qua các hình tượng tác phẩm(4), chúng ta thấy nổi bật lên ở ta cái thế lực đày đọa, chà đạp lên con người là những ông quan, bà quan cùng với bọn tay chân của chúng. Cái "Mệnh" ở đây mờ nhạt đi để hiện rõ lên cái Mệnh thế tục cụ th của xã hội ấy. Câu chuyện "Tài Mệnh", "Nghiệp dĩ", "Số kiếp" ở đây chỉ còn lại với ta hoàn toàn như những nghi vn, như có lần Nguyễn Du đã thốt ra:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.

(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hi,
Cái án phong lưu khách tự mang)

Không hỏi trời được, không thể giải đáp được câu chuyện do cái mệnh thế tục gây ra cái thực tế xã hội cay nghiệt, rối ren tàn bạo của xã hội Việt - Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX làm cho “trăm họ” phải điêu đứng, trong đó có cả bản thân Nguyễn Du đã chinh phục Nguyễn Du. Thực tế đáng nguyền rủa đó gần gụi hơn là chuyện "Trời Mệnh, Nghiệp dĩ..." tận đâu đâu!

Một điều cũng cần nói nữa là ở Đoạn trường Tân Thanh, mặc dầu những khái niệm này được nâng lên như là một triết lý thể hiện một sự nhận thức có hệ thống và sâu sắc của tác giả cứ đè nặng lên ta mỗi lần nó được nhắc đến:

Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân.

Hay:

Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.

Nhưng xét cho cùng, cái đè nặng lên ta không phải cái "Mệnh", cái "Nghiệp", mà chính là cái bạo tàn của thế lực của xã hội phong kiến, vì cuộc sống nội tâm sâu sắc của nhân vật,cuộc sng của những tâm hn có ý thức mạnh mẽ về quyền sống của mình trong xã hội thi nát, trực tiếp đày đọa lên mình. Số mệnh vẫn lùi dần đàng sau bức màn sắc nghiệt ngã của xã hội phong kiến.

4. Một số nhân vật như Vệ Hoa Dương, Bộ Tân kiểu thày trò của tên thày kiện ở nông thôn, "quân sư" cho Thúc Sinh đối phó với Tú bà, các kiện tướng Lôi Phong, Sử Chiêu (thuộc tướng của Từ Hải); các tướng tá và thuyết khách của Đốc phủ... cùng với những hành động, sự trạng của họ, Nguyễn Du đều lược bỏ đi hết. Cuốn truyện do thế mà chặt chẽ, nhẹ nhàng, không rườm rà với vô số chi tiết lôi thôi, không giúp ích gì cho việc phát triển các tính cách của nhân vật, không có lợi cho việc xây dựng nhân vật, xây dựng nội dung trực tiếp của tác phẩm.

Một nhận xét cuối cùng là: để phục vụ việc bố cục chặt chẽ cốt truyện của mình, ngoài việc lược bỏ đi những điều nói ở trên, Nguyễn Du còn chuyn ý từ hồi này sang hồi khác, sắp xếp lại các chi tiết hành động của nhân vật tạo ra một môi trường hoạt động cho các tính cách được thể hiện. Ví dụ, ở hồi 4, Thanh Tâm Tài Nhân đã cho bà viên ngoại nói ngay ra cái nguy cơ về "khách bán tơ" khi bà trở về nhà gặp Thúy Kiều. Ở Đoạn trường tân thanh thì không thế. Nguyễn Du đã chuyển ý đó xuống cuối màn của cơn gia biến:

Hi ra sau mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.

Điều đó gây cho ta một cảm giác bất ngờ, bâng khuâng hồi hộp. Tình thế ở đây trở nên căng thẳng với ta, tạo một môi trường cho cái thói sai nha "Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền" phát triển.

Một ví dụ khác, ở Kim Vân Kiều truyện, việc mụ mối đưa người Giám sinh họ Mã đến mua Kiều diễn ra sau bao nhiêu là "thời gian về câu chuyện mối manh của mụ mối họ Hàm, về cái việc mụ ta đi ra "hồi lâu" tìm bọn họ Mã. Ở Đoạn trường tân thanh, thì cuối cùng Mã giám sinh xuất hiện đồng thời và ngay lập tức trong không khí "tin sương đồn đại, xa gần xôn xao" cùng với cái tên họ Mã và cả quê quán, dung mạo của tên "giám sinh" ấy:

Gn miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách, tìm vào vn danh
Hi tên, rng: Mã giám sinh
Hi quê, rằng: huyện Lâm Thanh cũng gn
Quá niên trạc tuổi tứ tun
Mày râu nhn nhụi, áo quần bảnh bao.

Không như ở Kim Vân Kiều truyện, người mua Kiều (Mã giám sinh) xuất hiện ở hồi 4 (trang 42), nhưng cái tên họ Mã cùng với lai lịch của y mãi đến hồi 33 (tr.58) mới được giới thiệu.

Sự chuyển ý này gây cho ta một cảm giác nặng nề khi đọc các trang tiếp theo. Hình ảnh con người "mày râu nhẵn nhụi" này như cứ đè nặng lên bóng dáng của một nàng Kiều "liễu yếu đào tơ", khuê các. Cái cảm giác đó, cái không khí đó mở ra cho sự phát triển tính cách của Mã giám sinh:

Ghế trên ngi tót s sàng

hay Cò kè bớt một thêm hai sau này. Các lần chuyển ý khác đại để cũng có một công dụng, một dụng ý như thế.

* * *

Trở lên là những nhận xét có phần hết sức chung trên cơ sở đối chiếu so sánh Kim Vân Kiều truyện với Đoạn trường tân thanh. Qua những nhận xét đó, chúng ta có thể thấy rằng: Nguyễn Du chỉ dựa vào cái sườn của cốt chuyện văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân mà sáng tạo ra hẳn một thi phẩm của riêng mình. Cần nói rõ rằng trong lao động nghệ thuật tính chất sáng tạo của người nghệ sĩ không phải chỉ ở số liệu mà còn ở chỗ khác, quan trọng hơn là: cách sử dụng nhào nặn số liệu của những ý đó để xây dựng nên hình tượng nghệ thuật, những nhân vật điển hình có cá tính, và có ý nghĩa khái quát. Do đó, mà 1.313 câu được viết theo ý của Thanh Tâm Tài Nhân, trên căn bản vẫn có phần sáng tạo đáng kể của Nguyễn Du.

Đến đây, chúng ta có thể rút ra một kết luận rằng:

Đoạn trường tân thanh là một tuyệt tác, do Nguyễn Du đã bằng vào thiên tài và kinh nghiệm sống phong phú của mình mà sáng tạo ra trên cơ sở nhào nặn lại cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Chính vì thế mà cốt truyện và chủ đề của nó tuy có chỗ giống nhau bề ngoài, nhưng thực ra đã khác nhau sâu sắc từ bên trong.

Sự khác nhau này xuất phát từ sự lựa chọn và cách xử lý các tài liệu để mô tả, và mô tả một cách có ý thức, có một dụng ý mô tả rõ ràng của Nguyễn Du, xuất phát từ thái độ của Nguyễn Du đối với các nhân vật, đối với các bức tranh giàu tính hình tượng đã xây dựng nên trong tác phẩm của mình.

Và, đặc biệt quan trọng hơn là từ những bức tranh, từ những tài liệu và hiện tượng tiêu biểu của tác phẩm toát lên một cách nghệ thuật cái xu thế tất yếu hướng cảm hứng tư tưởng, hướng sự băn khoăn suy nghĩ của chúng ta theo một hướng khác.

Hướng đó là: Số phận con người trong xã hội cũ, và chính những thế lực của những con người trong giai cấp thống trị của xã hội đó chà đạp tàn nhẫn lên số phận của con người. Điều này có thể khác với ý định của Nguyễn Du (nếu có) hướng tới:

Ngm hay muôn sự tại tri,
Trời kia đã bắt làm người có thân...

7-7-1993
N.T.G
(TCSH60/02-1994)

-----------------
(*) Giáo sư Trường Đại học Bắc Kinh. Viết với sự cộng tác của MEGUMI KUDO, nghiên cứu sinh Nhật Bản.

(1) Ví dụ, lời của Thúy Vân nói về Kim Trọng: “E rằng không phải đi viếng Đạm Tiên, mà chỉ đi ngắm hai cô gái”, những ý nghĩ và hành động của Kim Trọng trong đoạn tái hồi, việc Thúy Kiều ăn nằm với Sở Khanh vì nghĩ mình trước sau cũng đã mất trinh rồi...
(2) Sau khi tên này thuyết rằng hắn sẽ dâng món phú quý làm lễ ra mắt, Từ Hải đáp: “Đội ơn tiên sinh có nhã ý đem phú quý đến cho, cô há nào lại không vui lòng nghe tiên sinh chỉ giáo”. Những lời từ miệng Thuý Kiều: “Giặc cướp chỉ là một việc làm bất đắc dĩ, thì còn quyến luyến mãi cái đó làm gì?” và, “Tổ phụ ta xưa kia cũng đều chịu ơn hình thành của nhà vua, vậy mà ngày nay ta tàn phá bờ cõi, giết hại nhân dân, cướp vàng lụa của họ, bắt con cái của họ”… (tr.24)
(3-4) Trong Đoạn trường tân thanh, mỗi lần Thúy Kiều bị cuộc đời đày đọa, phũ phàng là mỗi lần Nguyễn Du thét lên y như người trong cuộc. Tiếng thét có giá trị như những tiếng khóc ném vào cuộc đời bạc bẽo (có 9 lần tất cả, trừ lần Kiều bị đánh trước cửa quan).

 

 

Các bài đã đăng