Văn nghệ thế giới
Ngành nhân văn dưới góc nhìn của nghệ thuật biểu diễn
08:27 | 18/09/2013

Tại sao những người giảng dạy trong ngành xã hội nhân văn lại phải tự quảng cáo cho mình? Những người hoạt động trong các lĩnh vực sáng tạo khác đều có các nhà quản lý, đại lý và các nhà quảng cáo cho họ, chưa kể là còn có các hãng phim, nhà hát, phòng trưng bày và bảo tàng – nói cách khác là những điều kiện giúp cho họ tập trung vào những gì họ làm tốt nhất; đó là: sáng tạo.

Ngành nhân văn dưới góc nhìn của nghệ thuật biểu diễn
Một hoạt động tại Lễ hội nhân văn Chicago

Sự khủng hoảng của các ngành nhân văn là một vấn đề đã làm đau đầu các nhà chính sách giáo dục của Hoa Kỳ trong nhiều năm qua. Gần đây nhất, Quốc hội Hoa Kỳ đã đặt hàng cho Viện Nghệ thuật và Khoa học Hoa Kỳ thực hiện một nghiên cứu để tìm ra những giải pháp cho tình trạng nói trên. Kết quả của nghiên cứu trên được nêu trong một báo cáo dài 88 trang, mới được công bố trong tháng 7 vừa qua.

Tuy nhiên, theo nhận định của giới chuyên môn thì báo cáo nói trên dù rất hàn lâm và được thực hiện bởi những tên tuổi trong ngành, dường như vẫn quá chung chung và không đưa ra được các giải pháp khả thi để giải quyết sự khủng hoảng của khối ngành nhân văn. Mọi việc dường như đang trong tình trạng bế tắc và không có lối thoát.

Tuy nhiên, theo Matti Bunz, tác giả của bài viết được đăng trên trang Inside Higher Education vào cuối tháng 7 vừa qua, tình trạng của các ngành nhân văn không bi đát đến thế, và giải pháp cho tình trạng hiện nay có thể đến bằng một cách làm rất đơn giản mà chắc chắn sẽ thành công, vì chính ông đã có kinh nghiệm áp dụng đến hơn hai thập niên.

Xin trân trọng giới thiệu bài viết của Matti Bunz đến tất cả bạn đọc.


Một vài tuần đã trôi qua kể từ khi bản báo cáo do Quốc hội Hoa Kỳ đặt viết về tình trạng của các ngành khoa học xã hội và nhân văn có tựa đề là “The Heart of the Matter”1 (“Cốt lõi của vấn đề”) được Viện Nghệ thuật và Khoa học Hoa Kỳ công bố, mặc dù nội dung của bản báo cáo này không có gì đáng để chỉ trích nỗi đau của các ngành nhân văn vẫn còn chưa dứt. Chỉ riêng trong tờ New York Times đã có những ý kiến phản ứng bản báo cáo này của ba nhà bình luận chính trị tầm cỡ. David Brooks than vãn về tình trạng “tự tử tập thể” của các giáo sư ngành nhân văn; Verlyn Klinkenborg thì cảnh báo về sự xuống dốc và sụp đổ của ngành ngữ văn2, còn Stanley Fish thì chỉ trích báo cáo này là tầm thường và nhạt nhẽo và những “khuyến nghị của nó chỉ có thể có kết quả trong xã hội không tưởng “(và vì là một người theo chủ nghĩa Milton, ông biết rõ chúng ta tất nhiên không đang sống trong xã hội không tưởng), và ông cho rằng đến nay, sự thật hiển nhiên là các ngành nhân văn hoàn toàn “thất bại trong quan hệ công chúng” (Fish đang nhại lời của Klinkenborg3), do không thể giải thích được tại sao chúng lại cần thiết đối với mọi người. Vì vậy chẳng ngạc nhiên gì nếu như công chúng không mấy quan tâm gì đến những nỗ lực của họ.

Mặc dù vấn đề tiếp thị ngành nhân văn là rất quan trọng nhưng riêng với tôi, nó đặt ra một câu hỏi rất cơ bản: tại sao những người giảng dạy trong ngành xã hội nhân văn lại phải tự quảng cáo cho mình? Những người hoạt động trong các lĩnh vực sáng tạo khác đều có các nhà quản lý, đại lý và các nhà quảng cáo cho họ, chưa kể là còn có các hãng phim, nhà hát, phòng trưng bày và bảo tàng – nói cách khác là những điều kiện giúp cho họ tập trung vào những gì họ làm tốt nhất; đó là: sáng tạo.

Hiện tôi đang là giám đốc nghệ thuật Tổ chức Lễ hội nhân văn Chicago (Chicago Humanities Festival)4, một tổ chức lớn nhất của loại hình này tại Hoa Kỳ. Tổ chức của chúng tôi đã được nêu tên ngay trong báo cáo “The Heart of the Matter”, được ca ngợi về sự thành công trong việc “thu hút các học giả và các nghệ sĩ đến chia sẻ niềm đam mê và tài năng của họ với khán giả mới.”

Lễ hội nhân văn Chicago đã hoạt động được đến năm thứ 24. Đợt lễ hội mùa thu hằng năm của chúng tôi tổ chức khoảng 100 sự kiện về cùng một chủ đề. Lượng người tham gia là khoảng 50.000 lượt, và có hàng trăm ngàn lượt khán giả thưởng thức các sản phẩm của chúng tôi dưới hình thức truyền thông khác.

Chúng tôi đã làm điều đó như thế nào mà có thể thu hút được hàng ngàn người đến nghe các giáo sư thuộc các ngành nhân văn giảng bài? Thực ra, mọi việc khá đơn giản: chúng tôi xem các diễn giả như các ngôi sao và các sự kiện của chúng tôi như các buổi biểu diễn. Điều đó khác với cách vận hành của một chương trình đại học điển hình.
Các bài giảng trong trường cũng miễn phí và mở rộng cho công chúng. Nhưng công chúng làm cách nào để biết được điều ấy? Những tờ thông báo xấu xí dán trên bảng thông báo hẳn khó lòng thu hút được sự chú ý của công chúng. Và công chúng hẳn chẳng thích thú gì với những bài thuyết trình chuyên sâu và khô khan. (Ở đây tôi muốn nói thêm rằng với tư cách là một giảng viên đại học, tôi có thể cũng rất thích thú khi đọc các thông báo dày đặc chữ trên các listserv, tuy nhiên cũng phải nhấn mạnh rằng tôi đã có sẵn sự yêu thích đối với những sản phẩm đó rồi.)

Tất cả những gì chúng tôi làm tại Lễ hội nhân văn Chicago đều nhằm phá vỡ những rào cản như vậy. Chúng tôi viết các bản quảng cáo đầy khiêu khích về các sự kiện của chúng tôi, đăng quảng cáo trên khắp các phương tiện thông tin đại chúng địa phương, và hối thúc báo đài đã đăng quảng cáo phải viết tin về các sự kiện của chúng tôi.

Và chúng tôi tiến hành mọi công tác chuẩn bị sắp xếp sân khấu và phông nền, âm thanh một cách kỹ lưỡng nhất đảm bảo rằng các tài năng mà chúng tôi muốn giới thiệu phải được xuất hiện một cách nổi bật nhất. Quan trọng hơn, chúng tôi dành rất nhiều thời gian để suy nghĩ về việc giới thiệu các “diễn viên” của chúng tôi đến công chúng. Vị giáo sư lịch sử của Đại học Harvard mà chúng tôi mời đến có thói quen nói dài khi diễn thuyết chăng? Không sao, chúng tôi sẽ sắp xếp cho ông trao đổi với nhà báo có phong cách nhẹ nhàng nhưng kiên quyết và hiểu biết rất sâu sắc về vấn đề mà giáo sư đó sẽ trình bày. Người ta lo ngại về tính hàn lâm của bài báo cáo về triết học châu Âu chăng? Không sao, chúng tôi sẽ huấn luyện cho người trình bày cách tận dụng các phương tiện truyền thông để bài trình bày sao cho sinh động hơn.

Với tất cả sự chuẩn bị này, chúng tôi có được một lượng đông đảo khán giả háo hức, những người mà sau khi đắm mình trong sự uyên bác của các diễn giả (và đôi khi chính bản thân họ cũng đưa ra những câu hỏi sâu sắc một cách bất ngờ), sẽ trở về một cách háo hức muốn trở lại để nghe nữa.

Cách chúng tôi làm chẳng khác gì cách vận hành của các tổ chức văn hóa khác. Ví dụ như trong việc biểu diễn opera, một lĩnh vực mà nếu xét theo cái nhìn khắt khe của thời đại ngày nay thì chẳng lấy gì làm thực dụng lắm. Khi người ta lên kế hoạch để mời giọng nữ cao Anna Netrebko đến biểu diễn tại Chicago trong mùa biểu diễn 2012-13, điều đó đã gây ra cơn sốt chờ đợi của những tín đồ opera địa phương. Nhưng đối với nhiều khách hàng quen thuộc của nhà hát Lyric Opera, cô ấy chỉ là một nghệ sĩ không tên không tuổi. Vì vậy, nhà hát cần phải tạo ra sự kích động về sự xuất hiện của cô không kém gì ca sĩ opera lừng danh Mimi5, chưa kể là phải cung cấp cho cô ấy mọi đạo cụ sân khấu cần thiết để đảm bảo một buổi diễn tối ưu. Kết quả là buổi diễn đã cháy vé và gần như tạo ra một hiệu ứng cuồng loạn tập thể (tất nhiên là theo nghĩa tốt).

Vậy tại sao các ngành nhân văn lại làm khác? Rõ ràng, trong giới hàn lâm, chúng ta cũng thừa nhận những nhân vật như Julia Kristeva, Frans de Waal, và Maria Tatar là những ngôi sao (chúng tôi nêu tên ba diễn giả sẽ đến trình bày cho chúng tôi trong Festival mùa Thu năm nay về chủ đề “Động vật: Điều gì giúp phân biệt con người với các động vật khác”). Nhưng cũng giống như một diva opera hạng trung, họ cần được tiếp thị chuyên nghiệp và được đạo diễn cẩn thận để thu hút khán giả. Với tư cách là nhà tổ chức biểu diễn trong lĩnh vực nhân văn thì đó chính là công việc của chúng tôi. Sau 24 năm kinh nghiệm, giờ đây chúng tôi đã biết làm điều đó như thế nào.
Hãy bắt chước chúng tôi!

                                                                                                                                                                                  Matti Bunz



1 Có thể tải ở đây: http://www.humanitiescom mission.org/_pdf/hss_report.pdf

2 Bản gốc tiếng Anh ghi là ngành English, dịch chính xác là ngành Anh văn, nhưng thực ra đây là ngành nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn học Anh dành cho sinh viên bản ngữ, tức tương tự như ngành Ngữ văn của Việt Nam.

3 Cả Fish lẫn Klinkenborg đều là tác giả của nhiều bài viết về sự xuống dốc của khối ngành nhân văn trên tờ New York Times. Ví dụ như những bài gần đây:http://www.nytimes.com/2013/06/23/opinion/sunday/the-decline-and-fall-of-the-english-major.html;  http://opinionator.blogs.nytimes.com/2013/06/24/a-case-for-the-humanities-not-made/?_r=0

4 http://chicagohumanities.org/

5 http://en.wikipedia.org/wiki/Mimi_Lerner

                                                                                                   Theo Phương Anh - Tia Sáng

 

Các bài mới
Các bài đã đăng