Trong số các nhà văn đã kinh qua trại tập trung của Nazi, ngoài Primo Levi còn có một chủ nhân Nobel Văn học, Kertész Imre, người Hungari. Họ viết văn không chỉ để kể câu chuyện của mình và đồng loại mình, mà còn đặt ra những câu hỏi lớn: Tại sao chuyện đó lại có thể xảy ra? Khả năng tồn tại của con người có thể đến mức nào? Trong những hoàn cảnh tuyệt vọng nhất, phản ứng của con người đi theo chiều hướng nào? Trong Không số phận, Kertész Imre miêu tả một cậu bé Do Thái choáng ngợp trước những người lính Đức, và thậm chí còn “hạnh phúc” với cuộc sống cực nhục, còn trong Có được là người (Trần Hồng Hạnh dịch, Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn, 2010), vừa là tự truyện vừa là “tường trình” với giọng văn biên bản, Primo Levi chỉ ra rằng: chế độ trại tập trung làm cho con người không là con người nữa (không còn tên mà mang số, ăn một thứ xúp không thể tưởng tượng nổi, ngủ thì chỉ có một gang tay mặt sàn, phải đứng một chân mà ăn…), ở trong tình trạng ấy phản kháng và ngay cả hận thù cũng là không thể. Đơn giản là người tù của trại tập trung chỉ tập trung thứ năng lượng xơ xác của mình cho mục đích: sống qua một phút, rồi một phút nữa.
Ám ảnh thời gian trở đi trở lại trong các tác phẩm của Primo Levi, như đoạn mở đầu rất nổi tiếng về cái đồng hồ chết ở một ngôi làng trong Se non ora, quando? (Nếu không phải bây giờ, thì là bao giờ?, 1984). Một ám ảnh lớn nữa đối với người tù Levi mang số 174517 (tức một “số lớn”: các “số nhỏ” gần như không còn ai sống sót sau khi quân đồng minh tiến vào các trại tập trung) là giấc mơ trở về nhà, ngồi vào cái bàn quen thuộc (và kể chuyện của mình, nhưng sẽ không ai tin). Giấc mơ này cũng được Kertész nhắc tới trong Không số phận; có lẽ người tù nào ở các trại tập trung phi nhân tính ấy đều có cùng một giấc mơ, một thứ tài sản chung mang tính chất an ủi trong tình trạng đến cả răng vàng trong miệng và tóc cũng bị lột mất.
Niềm cay đắng bị huỷ diệt được Primo trình bày hiển ngôn trong một đoạn gần cuối sách, khi sự giải thoát đã rất gần: “Chúng tôi nằm trong một thế giới của người chết và kiệt sức. Dấu hiệu văn minh cuối cùng đã biến mất xung quanh và cả bên trong chúng tôi. Công trình biến con người thành thú vật mà bọn Đức thời đắc thắng đã dựng lên giờ đây đang được bọn Đức bại trận hoàn thành nốt” (tr. 285). Điều này đã dự báo trước rằng người ta có thể ra khỏi trại tập trung nhưng không bao giờ thoát khỏi nó.
Primo Levi bị quân Nazi bắt rồi đưa tới trại tập trung vào cuối năm 1943; quãng thời gian ở trại không thực sự dài là lý do quan trọng giúp Levi sống sót qua chiến tranh mặc dù ở đúng trại Auschwitz khủng khiếp, cùng với một may mắn rất lớn là được làm việc trong phòng thí nghiệm hoá học, có được một số ưu đãi so với bạn tù. Ở trại tập trung, hơn người khác một mẩu khoai tây cũng làm tăng thêm không ít khả năng trụ được trên đời. Nhưng có lẽ còn một lý do nữa: cuộc sống tinh thần của Levi không trở nên hoàn toàn đen tối vì luôn luôn được tiếp sức từ giọng nói của hai thi sĩ vĩ đại: Homer và Dante. Một tiếng nói con người nghe thấy được trong một thế giới không có tính người hẳn quan trọng hơn người ta có thể hình dung. Được cứu vớt bởi giọng nói ấy, sau này, Primo Levi cũng đã đóng góp một giọng nói con người khác, không phải để kể chuyện đơn thuần, mà còn làm chứng cho điều này: một thế giới không có nhân tính là điều có thể.
Theo SGTT.VN
|