Ai ra xứ Huế
Tiến trình khai mở nghề kim hoàn và khu lăng mộ tổ nghề trên đất Huế
09:41 | 28/08/2012

TRẦN VĂN DŨNG

Cùng với rất nhiều nghề thủ công truyền thống trên đất nước Việt Nam, nghề Kim hoàn được biết đến với sự sáng lập của hai vị tổ sư Cao Đình Độ và Cao Đình Hương ngay trên vùng đất Cố đô. Tài năng của các ông đã biến nghề kim hoàn trở thành một nghề thủ công độc đáo, mang đậm sắc thái Việt và được truyền bá khắp ba miền đất nước trong hơn hai thế kỉ qua.

Tiến trình khai mở nghề kim hoàn và khu lăng mộ tổ nghề trên đất Huế
Nhà thờ Tổ nghề Kim hoàn, số 71 đường Chùa Ông, thành phố Huế - Ảnh: internet

Hai vị tổ nghề đã được triều Nguyễn công nhận, ban sắc phong danh vị và lập khu lăng mộ tọa lạc uy nghi trên đất Trường An, phía Tây Nam thành phố Huế.

Vậy nghề Kim hoàn Việt Nam ra đời vào thời gian nào? Ai là người đầu tiên khai mở và tôn lăng của tổ nghề đang toạ lạc ở đâu? Có kiến trúc như thế nào?

1. Huế - vùng đất khai mở nghề Kim hoàn Việt Nam

Theo cuốn từ điển Hán Việt của học giả Đào Duy Anh viết: “Kim hoàn có nghĩa là vòng xuyến vàng” [1, tr. 203]. Nghệ nhân dân gian Trần Hữu Nhơn - Tộc trưởng Kim hoàn tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết: “Thời xa xưa, vàng là một loại quý kim, chỉ có trong cung đình vua chúa, hoặc quan lớn, còn ngoài dân dã thì có đồng các loại đến bạc đã là quý nên người thợ làm đồ trang sức hồi ấy gọi là thợ bạc”. Đến thời thực dân Pháp đô hộ, do ảnh hưởng của văn hóa Pháp, người thợ giàu mở tiệm bán đồ trang sức (nữ trang) để hiệu là Bijouterie và Bijoutier, nghĩa là người thợ làm đồ trang sức. Lần hồi, dân chúng dùng vàng nhiều hơn bạc nên được gọi là thợ vàng. Về sau nghe danh từ kim hoàn có vẻ thanh nhã cho nên từ kim hoàn được dùng phổ biến khoảng năm, sáu chục năm trở lại đây.

Về lịch sử xuất hiện thì nghề kim hoàn đã có từ lâu đời, khi con người có nhu cầu làm đẹp và vàng bạc trở thành một thứ đồ trang sức quý giá. Ở Việt Nam, trong các di chỉ khảo cổ xa xưa đã ít nhiều xuất hiện một số trang sức bằng vàng bạc. Từ đầu công nguyên, lịch sử cổ Trung Quốc đã từng ca tụng Giao Châu (tên nước ta hồi đó) là nơi có nhiều vàng bạc châu báu và việc khai thác những kim loại quý này đã khá phát triển. Trong nhiều mộ ở thế kỷ II, III, đã thấy đồ trang sức bằng vàng, bằng ngọc như vòng tay, nhẫn, trâm, lược, hoa tai, hạt chuỗi... được gia công tinh tế.

Đặc biệt, vùng Đại La - Thăng Long xưa có làng Định Công nằm bên bờ sông Tô Lịch, (nay thuộc huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội) vốn nổi tiếng với nghề kim hoàn từ thế kỉ VI. Tương truyền tổ nghề chạm vàng bạc có liên quan đến ba anh em họ Trần (sinh thời khoảng năm 571 - 603) đã tạo nên cái nôi ban đầu của nghề chạm kim hoàn.

Điều đó chứng tỏ trước khi xuất hiện hai tổ nghề họ Cao ở đất Huế (mà chúng tôi đề cập trong bài viết này) thì nước ta đã có nghề chạm khắc vàng bạc làm đồ trang sức, tuy nhiên dấu ấn để lại hiện nay ít nhiều đã phai nhạt.

 Theo sử sách ghi lại, khoảng hơn 200 năm về trước, người có công định hình và khai sáng nghề kim hoàn đã được triều đình nhà Nguyễn sắc phong, vào các thời Khải Định thứ 9 và Bảo Đại thứ 13. Đó là hai cha con ông Cao Đình Độ và Cao Đình Hương. “Các họ, các lò của ngành kim hoàn ba miền đã chính thức chọn ngày 7 tháng 2 (ngày mất của ông Cao Đình Hương) làm ngày giỗ” [3, tr. 129]. Họ được xem là tổ nghề Kim hoàn Việt Nam hiện nay.

Vị Đệ nhất tổ sư Cao Đình Độ sinh năm Giáp Thìn (1744), tại làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Xuất thân từ một gia đình nông dân, thuở thiếu thời ông rất ham học và được truyền thụ nền giáo dục Nho giáo. Lớn lên ông làm nghề bịt đồng (tức là hàn khay gãy, bịt chén bể...). Vào thời đó, “các chúa Nguyễn nắm trong tay được nhiều mỏ vàng, đặc biệt là mỏ Bồng Miêu ở Quảng Nam. Nhờ thế mà đồ trang sức trong phủ chúa đều làm bằng vàng” [6, tr. 10]. Nhưng nghề kim hoàn ở nước ta mới phôi thai, dân ta chưa có ai thành thạo nghề này. Các vật quý, đồ trang sức của vua chúa hay quan lại đều phải thuê thợ kim hoàn người Trung Quốc làm. Những người thợ này, hoặc theo thuyền buôn sang thông thương, hoặc xin trú ngụ để hành nghề. Họ giấu nghề rất kỹ, không cho người địa phương biết để giữ độc quyền hành nghề. Chúa Nguyễn Phúc Khoát nhận ra sự thiệt thòi của nền thủ công mỹ nghệ nước nhà, thường rất băn khoăn nên đã cho nhiều người tìm cách hợp tác nhưng đều không có kết quả.

Trong hoàn cảnh đó, niềm đam mê lớn trong người thợ trẻ Cao Đình Độ là muốn trở thành một người thợ kim hoàn xuất sắc. Ước mơ mãnh liệt ấy ngày đêm luôn thôi thúc, buộc ông lên đường “tầm sư học đạo”. Để học được nghề, ông phải dành nhiều thời gian học tiếng Hoa, theo dõi lối sinh hoạt, giao thiệp của họ, cải trang thành người Hoa xin vào giúp việc cho một chủ tiệm vàng ở Thăng Long (Hà Nội). Bởi thời kỳ này chỉ có người Hoa mới nắm được cách chế tác và độc quyền sản xuất, buôn bán vàng bạc.

 Với vốn Nho học phong phú cộng thêm tính hiếu học và lòng trung thực của ông khiến chủ tiệm kim hoàn người Hoa cảm động, quý mến và truyền nghề cho ông. Mặc dù người Hoa có tiếng là giữ nghề, không truyền cho người ngoài, nhưng với tư chất thông minh, lanh lợi sẵn có, cộng với đôi bàn tay khéo léo và sự cần cù, sáng tạo nên ông quan sát tìm hiểu và nắm bắt được bí quyết nghề kim hoàn của người Hoa. Với ý chí phải học cho thành tài, ông học cả cách chế tạo dụng cụ cần thiết của nghề chạm trổ vàng bạc và không từ chối bất cứ việc gì chủ sai bảo. Công sức của ông đã được đền đáp xứng đáng, tay nghề ông ngày càng thành thạo và đạt trình độ kỹ thuật tinh xảo, đủ sức tranh tài với những thợ kim hoàn người Hoa khác tại đất Thăng Long thời bấy giờ.

Năm Quý Mão (1783), quân Trịnh chiếm đóng Phú Xuân, đường vào Thuận Hóa thông thương nên ông đã cùng vợ con men theo bờ biển vào Nam và dừng chân lập nghiệp tại làng Kế Môn (nay thuộc Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế). Tại đây, ông đã truyền nghề cho con trai mình là Cao Đình Hương. Thừa hưởng đức tính thông minh của cha, Cao Đình Hương tiếp thu nghề kim hoàn một cách nhanh chóng và trở thành một nghệ nhân thành thục trong nghề tại Thuận Hóa. Và ông Cao Đình Độ còn “truyền nghề cho một số học trò thuộc hai họ Huỳnh Công và Trần Mạnh” [2, tr. 120]. Về sau, hai họ Huỳnh, Trần tiếp tục truyền nghề lại cho con cháu. Sự việc đó đã biến làng Kế Môn thành làng thợ kim hoàn lớn vào bậc nhất ở xứ Đàng Trong.

Dưới thời nhà Tây Sơn, vua Quang Trung cũng là người quan tâm đến thủ công nghiệp nước nhà, đã lập ra ngành Ngân Tượng và danh tiếng ông Cao Đình Độ được lan truyền đến triều đình. “Năm 1790, vua Quang Trung triệu hai cha con ông cùng một số thợ bạc ở làng Kế Môn vào triều để lập đội Cơ vệ Ngân tượng, nơi chuyên nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ vàng bạc và đồ trang sức cung điện. Trước công đức và những đóng góp lớn lao đó, ông được triều đình phong chức Lãnh binh, phó Lãnh binh là Cao Đình Hương, con trai ông. Thời gian này, gia đình ông sống tại làng Cao Hậu (thường gọi là Côi Hậu), huyện Hương Trà” [2, tr. 104] (nay là xã Hương Sơ, thành phố Huế).

Đến khi Nguyễn Ánh chiếm lại đất Thuận Hóa - Phú Xuân, lập nên vương triều nhà Nguyễn, lấy niên hiệu Gia Long vào năm 1802, tất cả mọi thành tựu văn hóa dưới triều Quang Trung điều bị phá hủy, chỉ duy nhất ngành Ngân Tượng được bảo tồn. Hai cha con ông Cao Đình Độ và Cao Đình Hương cũng như nhóm thợ làng Kế Môn vẫn được vua Gia Long trọng dụng, cấp bổng lộc và giữ nguyên tước cũ để tiếp tục nghề kim hoàn trong cung điện. “Các sản phẩm từ vàng bạc như trâm cài, hoa tai, vòng xuyến, nhẫn... được sử dụng ở Phú Xuân trong thời phong kiến chủ yếu được tạo bởi những người thợ kim hoàn Kế Môn” [5, tr.364].

Vào lúc 18h, ngày 27 tháng 2 năm Canh Ngọ (28/2/1810), ông Cao Đình Độ qua đời, hưởng thọ 66 tuổi. Nhà vua và triều đình thương tiếc, truy phong thêm tước hiệu: “Đệ nhất tổ sư”, được ban đất xây lăng như các quan đại thần và cử hành tang lễ chu tất, an táng tại ấp Trường Cởi (phường Trường An bây giờ). Mặc dù còn được kế tục sự nghiệp của cha trong triều với chức quan Lãnh binh, nhưng bằng cách nhìn nhạy bén của người trong nghề, Cao Đình Hương nhìn thấy hoài bão của cha mình sẽ bị mai một theo thời gian, không những thế, nghề kim hoàn sẽ bị thất truyền nếu ông chỉ quanh quẩn phục vụ trong cung vua. Vì thế, ông Cao Đình Hương quyết định từ quan về nhà để tìm người nối nghiệp gia đình. Quan Thượng thư bộ lại ở Thuận Hóa lúc bấy giờ là Trần Minh cùng vợ là Huỳnh Thị Ngọc đã mời ông về phủ dạy nghề cho 3 người con là Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền và 3 người cháu là Huỳnh Quang, Huỳnh Bảo, Huỳnh Nhật.

 Ngày 7/2 âm lịch (8/2/1821), ông Cao Đình Hương qua đời, thọ 48 tuổi, được vua Minh Mạng phong tước hiệu: “Đệ nhị tổ sư”, phần mộ được an táng cạnh mộ phần tổ phụ tại ấp Trường Cởi. Trước khi mất, tâm huyết sau cùng của ông là mong muốn học trò của mình đem nghề kim hoàn truyền bá rộng rãi trong dân gian.

Theo lời thầy dặn, 6 đệ tử của ông Cao Đình Hương đã chia nhau làm hai hướng để truyền nghề kim hoàn trong thiên hạ. Ba anh em họ Trần ngược ra Bắc Hà, đến Thăng Long mở lò thợ bạc, thu nhận đệ tử. Ba anh em họ Huỳnh lại xuôi vào Nam. Đến Phan Thiết, do một người bị qua đời, hai người còn lại dừng chân luôn tại đây để mở lò dạy nghề. Do đó, thợ kim hoàn ở Phan Thiết xem ba anh em họ Huỳnh là tổ sư nghề Kim hoàn. Được tin ba anh em họ Huỳnh dừng chân ở Phan Thiết, ba anh em họ Trần sau khi truyền nghề ở phía Bắc, lại tiếp tục hành trình xuôi vào Nam và điểm dừng chân của họ là Chợ Lớn. Anh em họ Trần đã mở lò thợ bạc, truyền nghề cho đệ tử khắp miền lục tỉnh. “Tại Chợ Lớn, vì quá thương nhớ thầy và bạn đồng nghiệp nên anh em họ Trần đã lập một đền thờ lấy tên là “Lệ Châu Hội Quán” (có nghĩa, thương nhớ mà lã chã lệ châu rơi). Đền thờ Lệ Châu được đặt tên như vậy là do xuất phát từ câu: Kim trầm lệ thủy, ngân xuất châu đê” [4, tr. 129].

Gần 100 năm sau khi hai ngài quy tiên, đến triều Khải Định thứ 9 (năm 1924), nhân dịp Tứ tuần Khánh Tiết, xét hai Ngài có nhiều công lao trong việc truyền bá nghề kim hoàn nên vua Khải Định hạ chiếu sắc phong: “翊 保 中 興 靈 扶 之 神  Dực bảo Trung Hưng Linh Phò Chi Thần”vào ngày 25 tháng 7. Đến đời vua Bảo Đại thứ 13 (năm 1938), hai ông tiếp tục được sắc phong  “翊 保 中 興 靈 扶 之 神  Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Chi Thần” cho người có công khai sáng ngành kim hoàn Việt Nam và khu lăng mộ được kiến tạo, trùng tu đạt giá trị nghệ thuật cao.

2. Lăng mộ tổ nghề kim hoàn Việt Nam: giá trị kiến trúc và lịch sử

Hiện nay, khu lăng mộ tổ nghề kim hoàn Việt Nam nằm ở phường Trường An, thành phố Huế. Đến đường Phan Bội Châu, đi một đoạn, rẽ vào một kiệt nhỏ sẽ đến cổng lăng. Cổng lăng là bốn trụ biểu rất cao. Bờ giải mặt trước của hai trụ biểu chính giữa có đắp nổi hai vế đối bằng chữ Hán.
 

Lăng mộ tổ nghề Kim hoàn ở Huế - Ảnh: hue.vnn.vn


Khu lăng mộ hình trái xoài dài 17.5m, rộng 11m, với chu vi khoảng 2.200m2. Phía bên trái (nhìn vào) là lăng mộ của Đệ nhất Tổ sư Cao Đình Độ, phía bên phải là Đệ nhị Tổ sư Cao Đình Hương. Hai ngôi mộ cách nhau 100m và được định hướng Đông, Tây, Nam, Bắc theo la bàn. Kiến trúc hai lăng mộ tương đối giống nhau với kiểu “Nội công, ngoại quốc”, đây là kiến trúc văn hóa đặc trưng của triều Nguyễn. Các nghệ nhân đã biết thổi vào những mảnh sành sứ, thủy tinh một sự sống động để họa tiết trang trí ở lăng mộ trở nên có hồn và tinh tế vô cùng. Lăng mộ của hai vị Tổ chia thành hai tầng. Tầng thứ nhất có cửa tam quan bằng bốn trụ biểu. Bốn trụ biểu trang trí các câu đối, đôi trụ giữa có cặp rồng chầu vào lăng mộ, còn lại là trang trí các ô hộc hình cây lá được khảm sành sứ. Hai trụ biểu ngoài gắn liền với vòng thành lăng. Mặt trước bờ giải của hai trụ giữa (nhìn từ ngoài vào) có viết hai vế đối:

Ở lăng Đệ nhất Tổ sư Cao Đình Độ:





Phiên âm:

Lăng tẩm hoàn quán dị thảo kì hoa phô tú sắc,

Môn tường ngoại vọng thanh lam bích động biểu hà quang.


Tạm dịch:

Xung quanh lăng tẩm, hoa thơm cỏ lạ phô sắc đẹp,

Bên ngoài tường cổng non xanh động biếc.


Ở lăng Đệ nhị Tổ sư Cao Đình Hương:





Phiên âm:

Ngưỡng chi di cao trụ hoàn cương thường nhập hiếu xuất để,

Ngật nhĩ trác lập biểu dương công đức cận duyệt viễn lai.


Tạm dịch:

Ngưỡng lên trông thấy càng cao, giữ vẫn cương thường, vào hiếu ra để,

Nghe danh càng trác tuyệt, công đức được biểu dương, gần vui, xa (thì) đến.


Mặt trước, bờ giải của hai cột trụ phía ngoài cùng có đắp nổi hai vế đối.

Lăng Đệ nhất Tổ sư Cao Đình Độ:





Phiên âm:

Bình sơn hương thủy phong quang thắng,

Khôn thổ đoài kim khí vũ cao.


Tạm dịch:

Núi Ngự hương sắc, phong cảnh đẹp,

Khôn là thổ, đoài là kim, hiện chí khí cao.


Lăng Đệ nhị Tổ sư Cao Đình Hương:





Phiên âm:

Long triều hổ phục Nam Giao địa,

Nguyệt lãnh phong thanh ngự lãnh thiên.

Tạm dịch:

Đất Nam Giao rồng chầu hổ phục,

Trời đỉnh Ngự gió mát trăng thanh.


Tiếp theo, ở giữa tầng thứ hai có một bức bình phong cuốn thư. Trên bức bình phong có trang trí một con Kỳ Lân chở trên lưng các bức cổ đồ được tạo hình bằng phương pháp khảm sành sứ. Kỳ Lân là một trong 4 linh vật: long, lân, quy, phụng theo tín ngưỡng dân gian Á Đông. Xét về phong thủy, bức bình phong này che chắn cho ngôi mộ, chống lại tà khí, tai ương.

Bước qua năm bậc cấp ở hai bên bức bình phong thì lên tầng hai của lăng. Cửa được thiết kế bằng sáu cột trụ nhỏ. Bờ giải của sáu cột trụ nhỏ này đều có viết những câu đối thơ. Đối diện bức bình phong là bi đình khảm sành sứ tinh xảo. Hai tầng mái lợp bằng ngói ống trang trí hoa văn chữ Thọ, theo lối triện, gọi là “câu đầu trích thủy”, trụ tròn đối hoa sen, long vân nổi lượn quanh theo kiểu “long vân đồng trụ”. Tại bờ nóc có lưỡng long chầu nguyệt như các di tích khác tại Huế. Tầng trên chính diện có hoành phi đắp nổi ba chữ Hán.

 Lăng Đệ nhất Tổ sư Cao Đình Độ:

Thiên vi bảo” (Điều lành làm trọng)

Lăng Đệ nhị Tổ sư Cao Đình Hương:

  Đức kỳ thạnh” (Đức cao dày, thịnh vượng cho môn đệ hậu sinh).

Bên trong bi đình có một tấm bia. Mặt trước của bia khắc bằng chữ Hán.

Lăng đệ nhất Tổ sư Cao Đình Độ:

 

Phiên âm:

Sắc phong Dực Bảo Trung Hưng Kim hoàn nghệ Đệ nhất Tổ sư cao quý công thần mộ.

Lăng Đệ nhị Tổ sư Cao Đình Hương:



Phiên âm:

Sắc phong Dực Bảo Trung Hưng Kim hoàn nghệ Đệ nhị thế Tổ sư cao quý công thần mộ.

Giới hạn tại phần đầu của lăng được xây cao vút lên làm nền cho hậu điện, gối đầu cho phần mộ. Phần mộ hình tròn có đường kính 4m, cao 1m, chu vi có 3 lớp cánh hoa sen cách điệu, đỉnh mộ đất trồng cỏ.

Trước điện có hương án xây kiểu chân quỳ, mặt bàn nổi và trong lòng sóng chỉ nổi và ống trấy. Mặt trước có chữ thọ đắp nổi, dơi chầu 4 góc tượng trưng cho ngũ phúc. Phía trong khám thờ có tấm bài vị khắc bằng chữ Hán:

 

Phiên âm:

Kim hoàn tổ sư thần vị

Hai bên khám thờ có viết hai vế đối bằng chữ Hán.

Lăng Đệ nhất Tổ sư Cao Đình Độ:





Phiên âm:

Kim hoàn triệu thỉ tam kỳ tổ,

Ngọc bảo khai tiên thiên cổ sư.


Tạm dịch:

Sáng lập nghề kim hoàn, làm tổ sư ba miền,

Ngọc quý mở đầu, ngàn đời làm thầy.


Lăng Đệ nhị Tổ sư:





Kim hoàn tinh xảo tam kì tổ,

Ngọc bảo huấn truyền bách thế sư
.

Tạm dịch:

Nghề vàng tinh xảo, làm tổ ba miền,

Ngọc quý truyền dạy, trăm đời làm thầy.


Sau cùng là hậu điện: cao 4.5m, rộng 1.5m x 2.6m tám mái hai tầng lợp bằng ngói ống chữ thọ, cuối mái ”câu đầu trích thủy” trụ tròn đối hoa sen có chức năng diềm mái và dùng để định hướng giọt nước mưa. Ngoài ra, long vân nổi lượn quanh, tại bờ nóc có lưỡng long chầu nguyệt, cuối các bờ giải có hai cặp long giao. Phía dưới có miếu lưu bia, bia gốc nguyên sơ dày sâu liền lõm vào tường thành mái cong lượn vòng thấp dần xuống vừa tầm làm nền cho hậu điện.

Lăng mộ hai ông tổ nghề kim hoàn là Cao Đình Độ và Cao Đình Hương được những người thợ kim hoàn lập nên để nhớ ơn công lao của hai ông trong việc truyền bá nghề này trên vùng đất Huế và ba miền đất nước. Với giá trị lịch sử và quy mô, kiến trúc, hệ thống khu lăng mộ tổ nghề kim hoàn đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia tại Quyết định số 168 - QĐ/VH ngày 2/3/1990.

Từ hai cụ tổ họ Cao, nghề đã được lưu truyền trên khắp ba miền đất Việt từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay, nghề kim hoàn trở thành một ngành nghề thủ công truyền thống được ưa chuộng, không chỉ vì giá trị kinh tế mà còn cả trình độ thẩm mỹ của những mặt hàng kim hoàn chứa đựng nhiều sắc thái Việt. Và khu lăng mộ của tổ nghề trên đất Huế luôn được các đệ tử, con cháu gìn giữ hương khói và là nơi hành hương linh thiêng của những ai theo nghề kim hoàn để tri ân những bậc tiền nhân đã có công khai mở một nghề để lại danh thơm và hồn thiêng dân tộc.

T.V.D
(SH282/08-12)


.....................................
1. Đào Duy Anh, Từ điển Hán Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2003.
2. Bảo tàng Tổng hợp Thừa Thiên Huế, Di tích lịch sử văn hóa Thừa Thiên Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2002.
3. Tôn Thất Bình (chủ biên), Truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1998.
4. Lê Minh Quốc, Các vị tổ ngành nghề Việt Nam, Nxb Trẻ, Hà Nội, 2009.
5. Ủy ban Nhân dân huyện Phong Điền, Địa chí Phong Điền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
6. Nguyễn Đắc Xuân, Hương Giang cố sự, Nxb Tủ sách Sông Hương, Huế, 1986.










 

Các bài mới
Các bài đã đăng