Ai ra xứ Huế
Dấu ấn ‘Thát bái châu’ trong văn hóa Huế
15:10 | 10/12/2021


VÕ VINH QUANG

Dấu ấn ‘Thát bái châu’ trong văn hóa Huế
Nhà bia Thát Bái châu - Ảnh: Võ Vinh Quang

1. Truyền thuyết về con rái cá trong tín ngưỡng dân gian

Rái cá1 là loài vật khá phổ biến trong đời sống, tín ngưỡng của cư dân miền sông nước. Ở nước ta, con rái cá (lang thát) được xem là một loài vật luôn giúp đỡ, bảo vệ cho con người. Tín ngưỡng thờ rái cá xuất hiện sớm tại Hoa Lư (Ninh Bình)2, rồi lan tỏa vào miền Trung, miền Nam; trong đó, nổi bật là truyền ngôn về việc hai con rái cá lớn chặn thuyền cứu giá Nguyễn vương Phúc Ánh trong giai đoạn gian truân đầu kỳ khôi phục trung hưng3.

Từ triều Nguyễn (từ 1802), rái cá được cộng đồng làng xã nhiều nơi phụng thờ và triều đình ban cấp sắc phong thần, với mỹ tự “Đông Nam sát hải lang thát4 nhị đại tướng quân”, hoặc “Đông Nam sát hải nhị đại tướng quân”, xếp vào hàng ngũ các linh thần trợ phò vương thất, bảo vệ xã tắc non sông.

Tại Huế, một số ngôi làng vẫn còn hiện hữu miếu/ am thờ linh thần rái cá, cũng như giữ gìn nguyên vẹn các sắc phong thần lang thát (rái cá) qua nhiều triều vua, chẳng hạn như làng Lại Thế, làng Nam Phổ, làng Bao La, làng Dương Xuân Thượng... đồng thời, vị thần “lang thát” (rái cá) luôn có mặt tại các bản văn tế truyền thống của làng xã hiện tại.

Ảnh 1: Sắc phong Lang Thát nhị đại tướng quân năm Minh Mạng thứ 7 (1826) của làng Nam Phổ
Ảnh 2: Sắc phong Lang Thát nhị đại tướng quân năm Thành Thái 2 [1890] của Dương Xuân Thượng


Bên cạnh đó, dấu ấn con rái cá ở đất Thừa Thiên còn gắn liền với một “câu chuyện văn hóa” khá thú vị, xuất hiện vào giai đoạn trị vì của vua Minh Mạng, được lưu truyền trong chính sử như Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam nhất thống chí... Câu chuyện văn hóa ấy còn được khắc bản lưu truyền và ngày nay vẫn còn hiện hữu trên một văn bia ngự chế của Thánh tổ Nhân hoàng đế nhà Nguyễn vào năm Minh Mạng thứ 21 (1840).

2. Thát bái châu (bãi rái cá lạy) - câu chuyện văn hóa độc đáo xứ Huế

Trên đường Minh Mạng dọc quốc lộ 49 men theo sông Hương, đến địa phận làng La Khê Hói, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế (cách cầu Tuần khoảng 500 - 700m), chúng ta nhìn thấy một bãi đất bồi từng được gọi là Bãi Rái Cá lạy (tức Thát bái châu). Đối diện với bãi Rái Cá, phía trên triền núi có một nhà bia dựng 2 bia đá gồm bia định danh Thát bái châu và văn bia ghi chép bài ngự chế của vua Minh Mạng về bãi Rái Cá.

Theo tìm hiểu sơ lược của chúng tôi, bia đá ngự chế Thát bái châu này vốn được dựng dưới bãi đất ven sông từ năm 1840. Sau đó, đến năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) thì dựng nhà bia và lập thêm bia định danh Thát bái châu. Trải qua hơn 160 năm với nhiều biến động của thời cuộc, tấm bia bị mòn mờ khá nhiều, và có một thời gian dài bị nằm sấp chìm xuống bờ sông. Vào khoảng thập niên đầu của thế kỷ XXI, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã triển khai công việc trục vớt bia đá này, và xây dựng nhà bia trên sườn đồi hiện tại để điều chuyển, dựng lại tấm bia Thát bái châu, nhằm bảo lưu dấu tích lịch sử.

Đến nay, hai tấm bia mặc dù vẫn còn thấy nét chữ, song rất khó khăn cho chúng tôi vì mòn mờ nhiều phần. Vài năm qua, chúng tôi đã nhiều lần tiến hành đo đạc, khảo sát, in rập thác bản và đối chiếu sử liệu… nhằm phục nguyên được toàn bộ nội dung của văn bia này.

Ảnh 3: Đại Nam thực lục chính biên nhị kỷ, quyển 211, tờ 15b (chép về Thát bái châu)
Ảnh 4: Đại Nam thực lục chính biên nhị kỷ, quyển 211, tờ 16a (chép về Thát bái châu, TT)


Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ (quyển 211, Thực lục về Thánh tổ Nhân Hoàng đế) kể lại câu chuyện nhà vua cho lập văn bia Thát bái châu để lưu dấu tích như sau:

“… [Canh Tý, Minh Mệnh năm thứ 21 [1840], tháng 3] Ngày Quý Sửu, vua thân hành đến lăng Thiên Thụ, lăng Thụy [Thoại] Thánh, lăng Cơ Thánh làm lễ yết. Trước một ngày, do đường thủy khởi hành, cho Hiệp biện Đại học sĩ là Trương Đăng Quế, Thống chế dinh Vũ Lâm là Bùi Công Huyên sung chức Hành dinh đại thần (Vua đi chơi trong kỳ có Hành dinh đại thần, bắt đầu từ đây).

Ngày hôm ấy, làm lễ xong, vua trở về qua bãi bên sông lớn xã Bằng Lãng, bảo thị thần rằng: ‘chỗ này trước đây 30 năm, đất cát bồi thành bãi nhỏ dài chỉ độ vài trượng. Trẫm khi ấy còn nhỏ, đỗ thuyền ở đấy, thấy có con rái cá to tướng, hướng vào trẫm mà lạy, vốn không phải là sự lạ, cũng là ngẫu nhiên. Nay thuyền ta đi qua đây, thì bãi này đã dài to vài mươi trượng cao hơn mặt nước 4, 5 thước rồi’. Nhân nhớ việc cũ, bèn sai đặt tên bãi ấy là Thát bái châu [bãi rái cá lạy]. Bãi ấy chỗ nào thành ruộng, chuẩn cho quan Kinh doãn khám đạc rõ ràng, mà tha thuế cho mãi mãi (thành ruộng công 50 mẫu). Vua lại làm một bài thơ, sai bộ Công khắc vào bia đá để lưu truyền dấu tích có thực
.”5 .

Sách Đại Nam nhất thống chí, quyển 2 - phủ Thừa Thiên cũng thuật lại rằng:

“Bãi Rái Vái: ở cách huyện Hương Thủy 15 dặm về phía tây. Khoảng đời Gia Long, chỗ này nguyên lớn, tự nhiên phù sa tụ lại thành một bãi nhỏ, ước vài ba trượng. Một lần Thánh tổ Nhân Hoàng đế theo ngự giá đi bái yết lăng Thụy Thánh, đỗ thuyền ở đây, chợt thấy trên bãi cát có một con vật gật gù, dáng như cúi đầu vái, nhìn kỹ thì thấy một con rái (tấy) cá lớn như người và hướng vào thuyền mà lạy, rất tự nhiên thấy người không sợ, khiến đến sát gần mới từ từ nhảy xuống nước mà đi. Lúc đầu, nhà vua không cho là lạ, đến năm Minh Mệnh [Mạng] thứ 21 [1840], thuyền ngự đi qua thì bãi đã nổi lên rộng đến vài mươi trượng, cao hơn mặt nước 4, 5 thước, nhà vua nhớ lại việc cũ, bèn cho tên hiện nay và vĩnh viễn tha thuế, lại sai bia ghi việc này. Năm Thiệu Trị thứ 2, dựng nhà bia và khắc ba chữ lớn “Thác [Thát] bái châu” dựng ở trên bãi để lưu truyền thắng tích6

‘Thát bái châu’ trong Minh Mạng ngự chế thi, lục tập


Nội dung bài văn bia ngự chế, đề thơ Thát bái châu trên cũng được ghi chép tương đối cụ thể tại Minh Mạng ngự chế thi, lục tập. Đấy chính là tư liệu hữu ích để chúng tôi có đủ cơ sở phục nguyên toàn bộ nội dung văn bia, vốn dĩ đã khá mòn mờ trên đá. Mặt khác, văn bia Thát bái châu ở thực tế hiện tại cũng góp phần bổ khuyết một số thông tin khá cụ thể về quan viên đại thần đứng ra khắc bản lưu truyền (thông tin ấy chính sử và thơ văn ngự chế không hề chuyển tải).
 

Ảnh 5: Bia định danh (3 chữ) Thát bái châu 獺拜 洲 (đặt bên phải bia lớn, nhìn ngoài vào)
Ảnh 6: Văn bia Thát bái châu do bộ Công vâng lệnh khắc bài ngự chế của vua Minh Mạng (năm 1840)

Bia đá Thát bái châu của vua Minh Mạng hiện nay được Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Bộ Công, quyển 221: Công Chính, mục Bia Bảng miêu tả khá cụ thể về số đo như sau:

“… Lại còn 2 bia bãi Thác7 [Thát] Bái; 1 chiếc thân cao 3 thước 8 tấc, rộng 1 thước 6 tấc 8 phân, dày 5 tấc 5 phân, chân dài 2 thước 5 tấc 5 phân, rộng 1 thước 4 tấc, dày 9 tấc 9 phân, kính khắc lời dụ và một bài thơ của vua về sự tích Thác [Thát] Bái; 1 chiếc thân cao 1 thước 4 tấc 5 phân, rộng 8 tấc 8 phân, dày 6 tấc 8 phân, khắc các chữ “bãi Thác [Thát] Bái”8 .

Theo số liệu thực tế chúng tôi đo đạc được, văn bia ngự chế về Thát bái châu (bia lớn) là bia 2 mặt, mặt trước ghi chép về bài ngự chế và bài thơ về con rái cá của vua Minh Mạng, có kích cỡ như sau: bia cao 1m56, thân bia cao 1m12, thân bia rộng 65cm. Trán bia dài 90cm, cao 33cm. Diềm bia rộng 10cm. Với văn bia định danh (ghi 3 chữ lớn) Thát bái châu 獺拜洲(bia nhỏ): bia cao 60cm và rộng 33cm.

Dưới đây là nội dung văn bia:

Hán văn

[前面] 獺拜洲
明命貳拾壹年參月貳拾貳日,內閣臣阮文 […], 臣林維義,臣張文 […]9 奉上諭:

憑浪社大江從三十年前曾有沙土聚成小洲,長止數丈。朕方少時泊舟于此,睹見大獺向朕而拜, 本不足異,亦屬偶然。茲御舟經過,則此洲已長大 成田土矣。因憶前事為製一章。且此洲彈丸之 地,不足為有無,著京尹查明,已未租稅若干,即以明命二十一年庚子為始永遠蠲免租稅。嗣從如有加培,起徵田土若干,亦一併餘之稱。著工部勒碑以傳真蹟。固知些微之事不足昭垂貞珉。然小民得 此無租之地,全社之資,亦[永賜] 10恩則此事諒無不 可也矣。欽此。

御製詩

此處原係大江,三十餘年前,忽聚沙土,成一 小洲,長約數丈而已。予年二十,時曾隨皇考謁瑞 聖陵,經過此處偶泊洲傍忽見洲上有物起伏若人叩拜狀。審視之,則一大獺人,立向予而拜。意甚自若見人,不驚令逼近之,方徐徐躍入水去。心亦弗以為異。今年經過,則此洲已長大數十丈,高出水面四五尺矣。因憶前事,爰命今名,且成一篇以紀實云:  

那洲成就廿多年。  
獺拜今名俾永傳。
於爾問心誰所欲。
向吾叩首意何焉。
如人有識方先見。
此獸無知亦偶然。
細事小洲非足道。
但留真蹟永租蠲。
(即降旨將此洲土以本年為始,永遠蠲免租稅縱他日長大闢成田土亦永除之仍立碑以紀其事而已11。右工部臣等奉錄。

[後面]  原侍中前貳衛衛尉, 臣,阮文鳳 - 侍中前壹衛副衛尉,臣,阮文科:奉專辦;禮部右參知兼管翰林院管理欽天監事務,臣,潘輝湜:奉誌;吏部清吏司正捌品書吏充國史館謄錄,臣,阮輝恆奉書。

Dịch nghĩa12:

[Mặt trước] BÃI THÁT BÁI (BÃI RÁI CÁ LẠY)

Ngày 22 tháng 03 năm Minh Mạng thứ 21 (1840), bọn thần ở Nội Các là Nguyễn (… …), Lâm Duy Nghĩa13, Trương Văn (…) kính vâng Thánh dụ:

Vào 30 năm trước, tại con sông lớn ở xã Bằng Lãng từng có đất cát tụ thành bãi nhỏ, dài chừng vài trượng. Trẫm lúc ấy tuổi nhỏ, ghé thuyền vào nơi đây, thấy con rái cá lớn hướng đến trẫm mà lạy, vốn chẳng có gì quái lạ mà cũng chỉ là ngẫu nhiên. Nay, thuyền ngự đi qua, tất thấy bãi này đã trở nên rộng lớn, dần biến thành ruộng đất vậy. Nhân nhớ đến việc xưa, bèn làm một bài văn - thơ. Vả chăng, châu (bãi) này rất nhỏ bé, chẳng đủ để tính chuyện có - không, lệnh bảo Kinh doãn14 tra xét rõ, [vùng đất này] đã chưa từng được tính bao nhiêu tô thuế cả. Tức thời, lấy năm Canh Tý, niên hiệu Minh Mạng thứ 21 (1840) là năm bắt đầu cho mãi mãi khỏi đóng tô thuế. Tiếp đó, nếu vùng này có được bồi đắp thêm, thì việc trưng thu thuế ruộng đất đều nhất thể theo trên mà bãi miễn [không thu thuế].

Bộ Công khắc bia đá để lưu truyền chân tích15. Cố nhiên biết rằng chuyện này rất nhỏ bé, chẳng đủ để sáng soi rõ rệt theo cùng bia đá truyền đời. Nhưng với cư dân được ở trên đất không đóng tô thuế này, thì đó là vốn liếng của toàn xã, ấy cũng để ban ơn mãi mãi [cho dân], tất [trẫm] tin rằng việc này chẳng thể không lưu dấu tích vậy.

Khâm thử.

Số đo văn bia Thát bái châu, trong Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ, Bộ Công, Quyển 221


THƠ NGỰ CHẾ

[Nguyên chú]

Xứ này vốn thuộc con sông lớn, ba mươi năm trước, bỗng tụ làm vùng đất cát, thành một bãi nhỏ trên sông, dài ước vài trượng thôi vậy. Ta vào năm 20 tuổi từng theo hầu Hoàng khảo [Thế tổ Cao Hoàng đế] bái yết lăng Thoại Thánh, đi qua chốn này, ngẫu nhiên ghé thuyền lên bãi nhỏ, bỗng thấy phía trên đầu bãi có một vật nhổm lên cúi xuống giống như dáng người lạy. Ta nhìn xét xem, tất đó là một con rái cá lớn, đứng thẳng hướng tới ta mà lạy. Ý là rất giống như được gặp người [tâm giao], ta chẳng sợ mà lệnh tiến tới gần nó, bấy giờ [rái cá] từ từ nhảy xuống nước bơi đi. Lòng ta cũng chẳng lấy gì làm khác lạ [vì điều đó]. Năm nay đi qua đây, tất bãi cù lao [bãi nhỏ] này đã rộng lớn hơn vài mươi trượng, cao hơn mặt nước tầm 4 - 5 thước vậy. Nhân nhớ chuyện xưa, ta bèn ban mệnh đặt tên [Thát bái châu] này, và làm xong một bài thơ để ghi sự thực rằng:

[Diễn nôm]:

Bãi cù lao được tạo thành từ [việc bồi lắng] vài mươi năm.
Thát Bái [Rái cá lạy], tên nay, khiến mãi truyền lại.
Ở ngươi, ngươi hỏi ai theo mong muốn của tâm mình.
Hướng đến ta, cúi đầu, ý là sao!
[Rái cá ngươi] như con người có tri thức mà diện kiến ta trước.
Ấy là loài thú vô tri, cũng là điều ngẫu nhiên.
Chuyện nhỏ, bãi cù lao nhỏ, chẳng đủ để làm rõ đạo lý gì.
Chỉ lưu lại dấu tích thực, mãi cho miễn thuế.

[Dịch thơ]:

Nhiều năm bồi lắng hóa thành châu.
Thát Bái tên nay, rõ mãi sau.
Ngươi hỏi: lòng ai theo sở thích!?.
Hướng ta cúi lạy, ý là sao!?
Như người hiểu biết lần đầu gặp,
Này thú vô tri cũng tự hào.
Bãi nhỏ, việc tinh, đâu trọn đạo,
Chỉ lưu chân tích, thuế không thâu.


(Tức thì giáng chỉ: đối với đất đai ở bãi cù lao [Thát bái] này, bắt đầu từ năm nay, mãi mãi miễn trừ tô thuế, dẫu ngày sau đất ruộng ở bãi này có được mở mang rộng lớn thì cũng miễn trừ tô thuế mãi mãi. Nhân đó, ta lập bia đá để ghi chép về chuyện này mà thôi.)

Chúng thần ở bộ Công kính ghi chép.

[Mặt sau] Nguyên Thị trung Tiền Nhị vệ Vệ úy, thần, Nguyễn Văn Phượng - Thị trung Tiền Nhất vệ Phó Vệ úy, thần, Nguyễn Văn Khoa: kính chuyên lo toan mọi việc.

Hữu Tham tri bộ Lễ, kiêm quản viện Hàn Lâm, quản lý Khâm Thiên giám Sự vụ, thần, Phan Huy Thực16: kính ghi.

Lại bộ Thanh Lại ty chính bát phẩm Thư lại, sung Quốc Sử quán Đằng lục, thần, Nguyễn Huy Hằng kính viết.

*
Thát bái châu (bãi Rái cá lạy) từ đó đã trở thành một vùng đất bãi bồi đặc biệt thú vị trong tiến trình văn hóa Huế. Đây là vùng đất được chính vua Minh Mạng đặt tên vào năm Minh Mạng thứ 21 (1840), và ân chuẩn cho mãi mãi miễn trừ tô thuế ngay từ những ngày đầu thành lập.

Địa danh châu Thát bái do Thánh tổ Nhân Hoàng đế triều Nguyễn ngự ban còn gợi mở thêm những ý nghĩa sâu xa về mối quan hệ “đặc biệt” giữa nhà vua, giữa vương triều Nguyễn và loài rái cá. Rái cá từng có công lao trợ phò Thế tổ Cao Hoàng đế (vua Gia Long) làm nên nghiệp cả, tạo dựng vương triều Nguyễn thuở gian khổ bôn ba, và sau này thì như người bạn tâm giao tìm đến thi lễ (cúi lạy) vái chào cha con Thế tổ, lúc các ngài đang trên đường lên bái yết các lăng tẩm tiên đế. Câu chuyện ấy phải chăng đã khắc ghi vào tâm khảm của vua Minh Mạng từ thuở đôi mươi (đang là hoàng tử), để rồi sau 30 năm, hình tượng rái cá lạy vẫn hiện lên sống động trong ký ức của Thánh tổ, như nhớ về một bằng hữu thâm giao!:

Ta vào năm 20 tuổi từng theo hầu Hoàng khảo [Thế tổ Cao Hoàng đế] bái yết lăng Thoại Thánh, đi qua chốn này, ngẫu nhiên ghé thuyền lên bãi nhỏ, bỗng thấy phía trên đầu bãi có một vật nhổm lên cúi xuống giống như dáng người lạy. Ta nhìn xét xem, tất đó là một con rái cá lớn, đứng thẳng hướng tới ta mà lạy. Ý là rất giống như được gặp người tâm giao, ta chẳng sợ mà lệnh tiến tới gần nó, bấy giờ rái cá từ từ nhảy xuống nước bơi đi. Lòng ta cũng chẳng lấy gì làm khác lạ” (trích từ văn bia Thát bái châu).

Bởi thế, không hề ngẫu nhiên khi vua Minh Mạng cho phép được đặt tên bãi đất bồi ven sông Hương ở đấy là Thát Bái châu (bãi Rái cá lạy), lại miễn hoàn toàn thuế phí của bãi đất này, nhằm để ghi nhận về ân tình giữa Nguyễn triều với loài Lang Thát (Rái Cá).

Dấu ấn ấy là một trong những “điểm son” độc đáo của văn hóa, lịch sử đất Cố đô, nhưng cho đến nay dường như vẫn ít người lưu tâm tìm hiểu. Do vậy, thông qua bài viết này, chúng tôi mong muốn nêu bật về dấu ấn văn hóa “Thát bái châu” thú vị bên bãi bờ sông Hương, ở vùng La Khê Hói (xã Bằng Lãng xưa).

Đấy cũng có thể sẽ là một điểm nhấn khá hấp dẫn cho hành trình thăm viếng đền đài lăng tẩm ở toàn khu vực nầy (với cụm lăng vua Thiệu Trị gồm Xương Lăng của vua Thiệu Trị, Xương Thọ lăng của hoàng hậu Từ Dụ (Dũ) - Phạm Thị Hằng, Hiếu Đông lăng của Tá Thiên Nhân hoàng hậu Hồ Thị Hoa - mẹ vua Thiệu Trị, Cơ Thánh lăng của Hưng Tổ Nguyễn Phúc Luân, Thát bái châu, Ứng lăng của vua Khải Định) và cụm lăng các chúa và vua Nguyễn ở vùng La Khê - Định Môn - Kim Ngọc… nếu chúng ta biết cách kết nối và tạo thành điểm nhấn tiêu biểu về văn hóa truyền thống Huế.

Thiết nghĩ, Thát bái châu thực sự tạo nên “nét riêng đặc biệt” trong sự hình thành làng xã vùng Huế. Hiếm có một địa phương, vùng đất nào vừa được hoàng đế ngự ban, định danh, lại cho phép miễn hoàn toàn thuế phí, để ghi nhớ cuộc gặp gỡ với “người” Rái cá của 30 năm về trước. Dấu ấn này, rất may mắn, đã không chỉ ghi chép vào trong sử sách, mà còn hiện hữu tại bản văn bia còn được bảo tồn tương đối nguyên trạng chính ở nơi đây. Đó là một trong những nét đặc trưng văn hóa đầy ấn tượng của bản sắc văn hóa cố đô Huế, là sự tự hào “chẳng nơi nào có được” của xứ Thần Kinh.

Huế, 27/08/2020 (bổ sung và điều chỉnh: 14/10/2021)

V.V.Q
(TCSH393/11-2021)

-----------------------------------
1. Rái cá có tên Hán việt là Thủy thát 水獺 (con rái cá sống dưới nước). Con rái cá lớn thì gọi là cự thát 巨獺 (hay đại thủy thát 大水獺). Cự thát” 巨獺 (con rái cá lớn) có tên khoa học là Pteronura brasiliensis (có những con cao bằng người, hoặc hơn người). Loài này còn được gọi bằng các tên khác như sói sông (river wolf) hay chó nước (water dog), thuộc họ Chồn, chuyên tìm bắt cá và hoạt động vào ban ngày, có tính bầy đàn cao.

2. Chuyện này gắn liền với truyền thuyết có bà Ðàm Thị, vợ ông Ðinh Công Trứ, nhân vì gặp rái cá khi đi tắm sông, bà sợ hãi ngất xỉu. Về sau bà đậu thai, sinh ra Ðinh Bộ Lĩnh. Lớn lên bà cho con biết về thân thế thật của người cha ruột, trao cho bộ xương rái cá đem chôn vào long mạch dưới lòng sông, quả nhiên sau này dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi Hoàng đế, gọi là Ðinh Tiên Hoàng.

3. Chuyện tương truyền rằng trong lúc bị Tây Sơn đánh đuổi, Nguyễn vương Ánh có chạy đến Gò Công, Tiền Giang bây giờ. Lúc đang chạy dưới rạch thì có hai con rái cá đứng ra chặn. Nguyễn vương Phúc Ánh bèn dừng thuyền quay lại. Ðúng lúc đấy phát hiện vùng nước trước mặt có quân Tây Sơn phục kích. Ngay lúc đó, một cơn bão to nổi lên đánh đắm thuyền của Tây Sơn. Nguyễn Ánh nhờ hai con rái cá mà không rơi vào phục kích, lại nhờ trời nổi bão mà diệt được đội quân Tây Sơn. Sau này, Hoàng đế Gia Long có tìm lại hai con rái cá để trả ơn mà không tìm ra, bèn quyết định phong tặng danh hiệu cho cả đôi là “Lang thát nhị đại tướng quân” để tưởng nhớ ơn cứu giá ấy.

4. Lang thát 狼獺: nghĩa gốc chỉ các con lang hoan 狼貛 (là con sói), một giống sói hoang rất dữ tợn và hùng mạnh; và con cự thát (巨獺: rái cá khổng lồ), hai con đều thuộc họ Chồn. Tương truyền, hai loài này là “chúa tể” của các loài vật trên cạn (con lang hoan 狼貛: sói) và “chúa tể” các loài vật dưới nước (cự thát 巨獺: rái ca khổng lồ). Vì có sự tương đồng về sức mạnh như vậy, nên con cự thát (巨獺: rái cá khổng lồ) được mệnh danh là “hà trung chúa tể chi lang” 河中主宰之狼 (con sói [chúa tể] trên sông nước).

Từ đó, cách gọi “lang thát” 狼獺 phổ biến ở Việt Nam ta, nhất là trong hệ thống sắc phong và thờ phụng, là để riêng chỉ con rái cá giống như loài sói chúa tể của dòng sông (巨獺, 河中主宰之狼cự thát, hà trung chúa tể chi lang), chứ không phải chỉ riêng con sói trên cạn (chứ không phải để chỉ 2 loài là con sói và con rái cá).

5. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Ðại Nam thực lục tập 5 (Viện Sử học dịch), Nxb. Giáo dục, HN, tr.679.

6. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Ðại Nam nhất thống chí tập 1 (Viện Sử học dịch, tái bản lần thứ 2), Nxb.  Thuận Hóa, Huế, tr.192-193.

7. Bản dịch chép “Thác” là không chính xác, vì chữ Hán 獺 có âm Hán Việt là “Thát”, với nghĩa con rái cá. Ðoạn trích dẫn trên, chúng tôi tuân thủ đúng nguyên tắc trích dẫn nên vẫn ghi là “thác” đồng thời đính chính bằng chữ THÁT ở ngoặc vuông: ([thát].

8. Nội Các triều Nguyễn (1993), Khâm định Ðại Nam hội điển sự lệ (bản dịch Viện Sử học), tập 13, Nxb. Thuận  Hóa, Huế, tr.473

9. Phần này chữ quá mờ nên chúng tôi không đọc được.  

10. Chữ này trên bia khá mờ, chúng tôi căn cứ vào tự dạng để phục nguyên (theo ý câu).  

11. Hàng chú giải bằng chữ nhỏ trên văn bia này hiện đã mờ nhiều, chúng tôi tham khảo ở Minh Mạng ngự chế thi  lục tập, tờ 37a-38b để bổ khuyết).

12. Vì văn bia khá dài, nên chúng tôi xin lược phần phiên âm.  

13. Lâm Duy Nghĩa 林維義 (1806-1863): còn có tên là Lâm Duy Thiếp 林維浹, tên tự Chính Lo 正路, hiệu Chất Trai 質齋. Theo sách Đại Nam chính biên liệt truyện đệ nhị tập, quyển 27, mục Các quan XVII: tiên tổ của ông là người Trung Quốc, sang cư trú tại huyện Tuy Viễn, Bình Định. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828) ông thi đỗ Hương tiến, từng làm Tri huyện, Tri phủ, có tiếng là chính trị giỏi. Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), được thăng bổ chức Thị độc học sĩ, Tham biện Nội Các sự vụ, rồi cất lên làm Thị lang vẫn sung biện việc Nội Các. Năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), ông được gia hàm Tham tri, chuẩn cho ăn lương tòng nhị phẩm. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), vua đi tuần ra Bắc, sung làm Nội Các ở nơi hành tại. Khi trở về, thưởng cho 1 đồng kim tiền “Phan long phụ phượng” hạng 3, có dây đeo, và 8 lạng bạc, cải bổ làm Hữu tham tri Bộ Binh. Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), ông giữ chức thự [tạm nhận] Thượng thư Bộ Công, rồi đổi sang Bộ Lễ, kiêm quản Thị Vệ sự. Tháng 9 năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), Lâm Duy Nghĩa (Thiếp) vâng chiếu sung làm Phụ Chính đại thần. Đầu triều vua Tự Đức, ông được thăng chức Hiệp biện Đại học sĩ. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), được sung vào viện Cơ Mật, kiêm Quốc Sử quán Phó tổng tài, và làm cả công việc doanh Thủy sư ở Kinh Kỳ, thưởng gia cho 2 cấp. Năm Tự Đức thứ 6 (1853), ông xin về thăm quê, vua cho 40 lạng bạc và dụ lấy ý giao hiếu để khuyến trung; lại ấm thụ cho một người con làm chủ sự. Khi trở lại Kinh, ông được đổi làm Tổng đốc Hà Ninh, chuyên trông coi mỏ kẽm ở 3 tỉnh Hải Dương, Thái Nguyên và Bắc Ninh. Năm thứ 12 (1859), Lâm Duy Nghĩa (Thiếp) lại được sung chức Đại thần ở viện Cơ Mật, có trình bày xin khuyên răn viên thống chưởng, răn bảo các quan coi việc kinh hai việc. Vua khen là thành thực khẩn thiết, nhắc bổ làm Thượng thư. Năm Tự Đức thứ 15 (1861), ở Nam Kỳ có việc, ông được sai sung làm Nghị hòa Phó toàn quyền đại thần, cùng với Thanh Giản đi thương thuyết, nhưng không đạt hiệu quả, nên bị vua quở trách, đổi làm Tuần phủ ở Thuận Khánh, nhưng phải cách lưu, cùng bàn bạc với tướng Pháp để chuộc tội. Chưa được bao lâu rồi chết. Vua nghĩ là bậc cựu thần, cấp thêm cho vóc lụa tiền nong để chôn cất. Năm Tự Đức thứ 21 (1868), ông bị truy đoạt lại chức hàm. Năm Đồng Khánh thứ 1 (1885), viên thần là Nguyễn Hữu Độ vì Duy Nghĩa (Thiếp), xin cho khai phục hàm Thị lang Bộ Binh.

14. Kinh doãn 京尹 là chức quan trưởng của Kinh đô.

15. Chân tích 真蹟: dấu tích chân thực, dấu hiệu gốc, chính xác, không bị biến đổi sai lệch.

16. Phan Huy Thực: Danh sĩ đời vua Gia Long, tự Vị Chỉ, hiệu Khuê Nhạc, con Phan Huy Ích, em Phan Huy Chú, sinh ngày 5-10 âm lịch Mậu Tuất (24/11/1778). Quê xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Trong đời Lê mạt, ông làm Hiệp trấn Lạng Sơn, sau thăng Thượng thư bộ Lễ. Có đi sứ nhà Thanh (Trung Quốc) trong năm 1817. Ðến năm 1841 ông về hưu được vua Thiệu Trị tặng thơ và tiền thưởng. Ngày 12-2 âm lịch Giáp Thìn (30/3/1844) ông mất, thọ 66 tuổi, liệt thờ vào đền Hiền Lương. Làng Ninh Sơn cũng có xây am thờ ông. Các tác phẩm của ông: - Hoa thiều tạp vịnh - Tì bà hành diễn âm - Nhân ảnh vấn đáp (nguồn: http://www.vansu.vn/viet- nam/viet-nam-nhan-vat/1922/phan-huy-thuc).



 

Các bài mới
Chùa Tiên (24/11/2023)
Các bài đã đăng