I. Câu đối lặp nhiều từ ngữ cùng âm trên cùng một văn bản ngắn 1. Cùng âm thuần Việt - thuần Việt (TV - TV) Trên cùng một văn bản ngắn, loạt cùng âm thường là từ đơn tiết. Hiệu quả chơi chữ được thể hiện khi giữa các từ cùng âm tạo nên một sự rối rắm nhất định giữa âm và nghĩa, đòi hỏi chuyện phân định rạch ròi giữa chúng (mà việc phân định này, mỗi khi lí trí không níu giữ, chúng lại tuột khỏi, tiếp tục gây “mù”, tạo lẫn lộn như cũ).
* Vôi tôi, tôi tôi; Trứng bác, bác bác. Hai “tôi” đầu là đại từ, “tôi3” là động từ (có nghĩa “làm cho tan vôi sống bằng cách đổ nước vào”), hai “bác” đầu là danh từ, “bác3” là động từ (có nghĩa “vừa đun nhỏ lửa vừa quấy cho đến khi sền sệt”). * Ruồi đậu mâm xôi đậu; Kiến bò đĩa thịt bò. “Đậu1” và “bò1” là động từ, “đậu2” và “bò2” là danh từ.
* Con ngựa đá con ngựa đá, con ngựa đá không đá con ngựa; Thằng mù nhìn thằng mù nhìn, thằng mù nhìn không nhìn thằng mù. “Đá1” và “đá4” là động từ, “đá2” và “đá3” là danh từ; “nhìn1” và “nhìn4” là động từ, “nhìn2” và “nhìn3” là từ tố của từ mù nhìn (bù nhìn).
* Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai? Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế. “Ai3” là từ tố của trần ai (bụi), khác với các “ai” còn lại là đại từ. Hai “thế” đầu là danh từ, gần nghĩa với cục diện, thế lực; “thế3” là từ tố của thời thế (tình thế, hoàn cảnh chung của xã hội trong một thời kì); “thế4” và “thế5” là đại từ, nghĩa là vậy, ấy.
Theo nhiều tài liệu có dẫn câu đối, thì vế ra là của Đặng Trần Thường, vế đối lại là cuả Ngô Thì Nhậm. Hai người vốn là bạn học, rồi Thường theo Nguyễn Anh, Nhậm phò Nguyễn Huệ. Nhà Tây Sơn sụp đổ, Nhậm bị chính Thường bắt. Thường đã ra vế đối trên để làm nhục Nhậm. Nhậm không chịu nhún, đối lại một cách khẳng khái, nên Thường đã hạ lệnh đánh Nhậm ba mươi hèo mới tha.
2. Cùng âm Hán Việt - Hán Việt (HV-HV) Loạt cùng âm là những từ đơn tiết: * Thị vào hầu, thị đứng thị trông, thị cũng muốn, thị không có ấy; Vũ cậy mạnh, vũ ra vũ múa, vũ bị mưa, vũ ướt cả lông. Bốn từ “thị” cùng âm: thị1-2: hầu, thị3: trông, thị4: muốn, thị5: ấy; bốn từ “vũ” cùng âm: vũ1-2: mạnh, vũ3: múa, vũ4: mưa, vũ5: lông.
Có câu đối tương tự, dùng nguyên vế sau, còn vế đầu thay bằng: “Đình không dừng, đình thế thì thôi, đình gặp sét, đình tung cả nóc”; với năm từ “đình” cùng âm: “Đình1”: tên người, “đình2”: (nước) không chảy, “đình3”: dừng lại, “đình4”: cái đình, “đình5”: cái sân. 3. Cùng âm TV-HV hoặc HV-TV * Cha áo thâm, con áo thâm, phụ tử hữu tình thâm chi nghĩa; Chị trằm bạc, em trằm bạc, tị muội vô phận bạc chi duyên. Tương truyền, vế ra là của người chị họ Phan Văn San (Phan Bội Châu), vế đối lại là của Phan (lúc mười một tuổi). “Thâm1-2” (màu tối, gần với đen), “bạc1-2”(màu sáng; kim loại có màu trắng), là hai từ TV, cùng âm với “thâm3” (sâu, nồng thắm; trái với “thiển”), “bạc3” (mỏng, nhạt nhẽo; trái với “hậu”), là hai từ HV.
II. Câu đối dùng một tổ hợp để biểu thị hai từ ngữ cùng âm 1. Cùng âm TV-TV a. Từ ngữ cùng âm với từ ngữ vốn có theo ngữ cảnh thuận, được nhận ra nhờ một yếu tố cùng trường nghĩa * Đọc vế đối: Ngói đỏ lợp nghè, lớp trên đè lớp dưới. Thì “nghè” là miếu, điện lợp ngói. Đọc tiếp vế đối lại: Đá xanh xây cống, hòn dưới nống hòn trên. Do có “cống” (hương cống, tức cử nhân) xuất hiện, “nghè” trở thành “(ông) nghè” (tiến sĩ). Và có thể suy ra hiện tượng cùng âm tương ứng ở “cống” (cái cống ® ông cống) 2vế ra là của một ông nghè, vế đối lại là của Nguyễn Gia Cát.
Cũng có một số câu đối mà quan hệ cùng âm được thiết lập ở hai, ba cặp đối ứng: * Rượu xơi cốc lớn vì say gái; Bạc đánh cò con cũng thức dai. Hai cặp: “cốc” (“(cái) cốc” « “(con) cốc”) 2 “cò” (“(đánh) cò (con)” « “(con) cò”); “gái”2“dai (trai)” (“(thức) dai” « “(gái) giai”). Câu đối của Nguyễn Can Mộng.
* Giàu có thiếu chi tiền, đi một vài quan đâu phải lẽ; Sang không thì cũng bạc, đem dăm ba chữ để làm duyên. Ba cặp: “giàu” - “sang” (“sang” tính từ, và “sang” động từ); “tiền” - “bạc” (“bạc” danh từ, và “bạc” tính từ); “quan” - “chữ” (“chữ” là đồng tiền, và “chữ” là văn tự, chữ nghĩa). Câu đối của Nguyễn Khuyến, làm lúc dự đám cưới của một người giàu trong thôn.
Các câu đối cùng kiểu dạng khác:
* Khoai Đơ xanh tốt nhờ về Phủ; Lĩnh Mỗ vàng trơn bởi có nghè. “Nghè (vải)” cùng âm với “(ông) nghè”. Câu đối của Nguyễn Quý Đức.
* Gái vờ vịt lấy trai không ra mặt; Bạc đá gà chơi đĩ lại sát xương. “Vịt”, thành tố của từ láy “vờ vịt” (giả vờ để che giấu), cùng âm với “(con) vịt”. Câu đối của Lê Trọng Du.
* Đau tiếc thân, lành tiếc của, thói ở bạc đã quen; Mất lòng trước, được lòng sau, ai có tiền thì hốt. “Bạc (nghĩa)” cùng âm với “(tiền) bạc”. Câu đối dán trước cửa hiệu thuốc bắc (“hốt”: bốc -PN Nam Bộ), của Nguyễn An Cư.
* Nghển cổ cò, trông bảng không tên: Giời đất hỡi, văn chương xuống bể! Lủi đầu cuốc, về nhà gọi vợ: Mẹ đĩ ơi, tiền gạo lên giời! Câu đối tả cảnh xem bảng kết quả thi, thấy không đỗ, cắm cổ về nhà của thí sinh ngày trước. “Cuốc” (đi một cách cắm cúi) cùng âm với “cuốc” (chim cuốc). “Lủi đầu cuốc” có thể hiểu “cắm đầu cắm cổ cuốc bộ về nhà”, đồng thời, cũng có thể hiểu tương đương với thành ngữ “lủi như cuốc” (tả hành động đi nhanh về nhà, không nhìn một ai).
b. Từ ngữ cùng âm với cụm từ tự do vốn có theo ngữ cảnh thuận, được nhận ra bởi hình thức cố định của chúng
* Bán rượu, bán trầu, không bán nước; Buôn trăm, buôn chục, chẳng buôn quan. Câu đối được dán ở quán giải khát. “Bán nước” tức bán nước uống, cùng âm với ngữ cố định “bán nước” (phản bội tổ quốc); “buôn quan” tức buôn một lượng hàng hoá có giá trị một quan tiền (hoặc buôn bán trong phạm vi một quan tiền), cùng âm với “buôn quan” (mua bán chức tước).
c. Từ ngữ cùng âm với từ ngữ vốn có theo ngữ cảnh thuận, được nhận ra bằng kiến thức, kinh nghiệm hay thực tiễn ngoài văn bản
* Câu đối của Nguyễn Khuyến: Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại; Triều đình cử mục, anh hùng chỉ có một ngươi thôi. Ông tam nguyên viết câu đối này để tặng một viên quan võ tên Quản Long. “Một ngươi” tức một mình ngươi, cùng âm với “một (con) ngươi”. Suy được cùng âm này, vì Quản Long chỉ có một mắt.
2. Cùng âm HV-HV a. Câu đối tiếng Việt (chữ Nôm, chữ quốc ngữ)
* Cũng câu đối của Nguyễn Khuyến (viết tặng tổng đốc Hà Nam): Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp; Nẹt thằng mặt trắng lấy tam nguyên. “Tam nguyên” theo ngữ cảnh thuận là ba đồng (giá trị bằng một tạ gạo lúc bấy giờ), cùng âm (và cùng chữ viết) với “tam nguyên” (đỗ đầu ba kì thi: thi hương, thi hội và thi đình; tức giải nguyên, hội nguyên và đình nguyên). Cùng âm này được xác định bởi sự đối ứng với “nhị giáp” ở vế trên.
b. Câu đối chữ Hán
* Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu mất, Khiếu Năng Tĩnh ở Trực Mĩ có câu đối viếng: Hiển tàng độc dị phùng tam mão; Tâm sự toàn nghi đối lưỡng thân. (Lúc hiển đạt và lúc mất, một điều lạ là cùng gặp vào ba năm mão; Tâm sự như thế là trọn đạo làm con đối với hai đấng thân) Thân” trong “lưỡng thân” (cũng gọi song thân, là cha mẹ), cùng âm với “thân” (thuộc thập nhị địa chi), do yếu tố “mão” cùng trường nghĩa này, ở vị trí đối ứng chỉ ra 2Đỗ Huy Liêu đỗ thủ khoa năm đinh mão (1867), đỗ hoàng giáp năm kỉ mão (1879), mất năm tân mão (1891).
3. Cùng âm TV-HV hoặc HV-TV a. Cùng âm TV-HV Dạng chơi chữ này dựa vào từ TV theo ngữ cảnh thuận, để suy ra từ ngữ HV cùng âm. Cách suy cùng âm dựa vào từ cùng trường nghĩa, hay tính chất cố định của từ.
* Dầu vương cả đế; Ỉa vãi vào sư. (Vế ra của một nhà sư, vế đối lại của Hoàng Phan Thái)
* Một chiếc cùm lim chân có đế; Ba vòng xích sắt bước thì vương. (Cao Bá Quát) “Vương” là mắc, dính vào (TV), cùng âm với “vương” là vua (HV). “Đế” là bộ phận gắn ở phần dưới của một số vật (TV), cùng âm với “đế” là hoàng đế (HV). “Vương” và “đế” HV được nhận ra do cùng trường nghĩa, cái này là điều kiện của cái kia và ngược lại (ở cả hai câu đối; riêng “vãi” thuộc cách cùng âm TV-TV -- “(vung) vãi” - “(bà) vãi” ).
* Ông thông đến gốc cây đề, ông thông không đi, là ông thông lại; Ông tú đi qua cửa cống, ông tú nhảy được, là ông tú tài. Theo ngữ cảnh thuận, thì “thông lại” là (ông) thông quay trở lại (kết cấu TV), cùng âm với “thông lại” (viên chức làm việc ở bàn giấy các công đường phủ, huyện thời thực dân Pháp) (HV); “tú tài” là (ông) tú có tài năng (kết cấu TV), cùng âm với “tú tài” (một học vị dưới cử nhân) (HV). Ngoài ra, “đề”, “cống” (trong “cây đề”, “cửa cống”) (TV), cùng âm với “đề” (thuộc đề, lại -viên chức), “cống” (thuộc cống (cử nhân), tú -học vị) (HV).
b. Cùng âm HV-TV Cùng âm HV-TV vừa có ở câu đối tiếng Việt, vừa có ở câu đối chữ Hán. + Với câu đối tiếng Việt: * Có vế đối: Trong quần anh có em học khá. “Quần anh” (HV: họp mặt các anh tài) cùng âm với “quần anh” (TV: cái quần của anh). Hiểu theo nghĩa TV, vế ra đối có ý nghĩa tục. + Với câu đối chữ Hán, các yếu tố cùng âm HV với TV tạo nên cách hiểu như từ ngữ TV, thường là hiểu theo nghĩa thực, nghĩa đen.
* Chị nọ chồng mất sớm, làm nghề hàng thịt, một niềm thờ chồng nuôi con. Vào dịp giáp tết, chị mang biếu Nguyên Khuyến đôi bồ dục, bát tiết canh và ngỏ ý xin nhà thơ mấy chữ về treo nhà. Nguyễn Khuyến viết: Tứ thời bát tiết canh chung thủy; Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang. (Bốn mùa tám tiết bền chung thủy; Dặm liễu gò bồ muốn điểm trang.) Câu đối nói lên ý chí, quyết tâm chung thủy của người vợ góa trước nỗi xao xuyến, đòi hỏi được “điểm trang” của “dặm liễu”, “gò bồ”. Đồng thời, chúng ta cũng lẩy ra được “bát tiết canh”, “đôi bồ dục” (hai món ăn được nhiều người thích) (TV), nhờ chúng cùng âm với các từ ngữ HV ở vị trí tương ứng (nếu đọc liền, không ngắt nhịp ở sau “tiết” và “bồ”). III. Câu đối dùng cùng âm có yếu tố tên riêng 1. Lặp nhiều từ ngữ cùng âm trên cùng một văn bản ngắn a. Câu đối tiếng Việt + Tên riêng là địa danh * Nam Định có vùng đất Lạc Quần, nơi có chợ, có sông tấp nập; đồng thời, lại có xứ Quần Lạc cách Lạc Quần không xa, cũng trù phú không kém. Một vế ra đối được lưu truyền từ lâu, có nêu các địa danh này, nhưng chưa có một vế đáp thật chỉnh. Vế ra là: Cô gái Quần Lạc, đi chợ Lạc Quần, bán lạc mua quần, trở về Quần Lạc. “Lạc Quần”, “Quần Lạc”, hai địa danh có tên gọi theo lối đảo trật tự từ của nhau, cùng âm với “lạc quần” (lạc mất cái quần), hàm ý trêu đùa, lại cùng âm với lạc (đậu phộng), ‘‘quần” (quần áo) ở dạng tách rời (về âm thanh, khômg phải về chữ viết)... Chừng ấy cũng thấy vế đối quả không dễ đối lại.
* Hà Nam có đất Như Trác. Tương truyền, nơi đây cũng có vế đối khó đối lại như vế đối ở xứ Lạc Quần (Nam Định): Gái Như Trác xấu như ma, người ta thiết tha như ma như trác. “Như Trác” cùng âm với “như trác” (HV: như giũa); “như ma” (TV: giống như con ma) cùng âm với “như ma” (HV: như mài). “Như giũa như mài” (như ma như trác) nói về cách tu luyện của mỗi người. Hồ Xuân Hương, có tài liệu nói, cũng có vế đối dùng địa danh Khán Xuân ở Hà Nội, như sau: Gái Khán Xuân, xuân xanh tuổi mười ba, khép cửa phòng xuân còn đợi nguyệt. Và có người đã đối lại: Trai Đình Bảng, bảng vàng treo đệ nhất, chờ khi chiếm bảng trúng khôi khoa. Đình Bảng thuộc Hà Bắc. “Bảng” (trong “bảng vàng”) cùng âm với “bảng” (trong “Đình Bảng”); tương ứng với “xuân” (trong “xuân xanh”) cùng âm với “xuân” (trong “Khán Xuân”) của vế ra. + Tên người * Có ông tên Phạm Đình Chi, một hôm, đến thăm bà Nguyệt Anh (Sương Nguyệt Anh). Ông Chi có vẻ tự phụ, đề nghị gia chủ ra vế đối để kết duyên văn tự. Bà Nguyệt Anh đọc: Đình làng tôi chẳng phạm, thưa ông, tôi phạm đình chi? Ông Chi nghĩ nát óc vẫn không sao đối lại được, đành cáo từ. “Phạm” là xúc phạm, đụng chạm đến cái cần tôn trọng, “đình” là đình làng, chúng cùng âm với “Phạm Đình” (họ Phạm Đình); “phạm đình chi” (phạm vào đình gì) cùng âm với Phạm Đình Chi (tên riêng). Cách cùng âm này vốn đã rất khó, với người trong cuộc càng khó hơn (muốn đối lại, trước hết, phải tìm được một cái tên gồm ba âm tiết, có từ loại theo thứ tự động từ, danh từ và đại từ (tương ứng với tên Phạm Đình Chi), kết thành một tổ hợp có nghĩa,và nếu được, là tên của người ra vế đối càng tốt).
* Một thời, ở tạp chí Văn nghệ, có Nguyễn Đình làm thơ trào phúng, Nguyễn Đình Thi viết truyện ngắn, thơ trữ tình rất hăng say. Xuân Thiều ra vế đối: Nguyễn Đình thi với Nguyễn Đình Thi. Thanh Tịnh đối lại: Trần Thanh địch cùng Trần Thanh Địch. Tên của hai người ở đầu vế đối cùng âm với hai âm tiết đầu trong tên ba âm tiết của hai người ở cuối vế đối. “Thi”, “địch”, hai động từ, cùng âm với “Thi”, “Địch” trong Nguyễn Đình Thi, Trần Thanh Địch, tên riêng.
b. Câu đối bằng chữ Hán + Tên riêng là địa danh * Đặng Toán làm quan có tiếng thanh liêm, đang giữ chức tuần phú Ninh Bình thì có chỉ cử làm tổng đốc Nghệ Tĩnh, nhưng sắp sửa lên đường nhận chức mới thì mất. Đỗ Huy Liêu có câu đối viếng Đặng Toán: Phương đáo Hoan chi thăng, hồ kị hạc quy, quy Thúy Hạc; Khởi dữ Ninh hữu ước, hưu tương hồng ấn, ấn Lam Hồng. (Mới nghe tin ông thăng quan lên châu Hoan (Nghệ Tĩnh), sao ông vội cỡi hạc về, về núi Thúy Sơn, núi Hồi Hạc; Hay là với tỉnh Ninh có hẹn, nên không đem dấu chim hồng in ở sông Lam Giang, núi Hồng Lĩnh.) “Hạc”, “hồng” là tên hai loài chim lớn (HV), cùng âm với một thành tố của tên gọi địa danh Thúy Hạc, Lam Hồng.
+ Tên người * Đoàn Trác Luân là anh ruột Đoàn Thị Điểm. Hôm ấy, ông Luân xuống ao rửa chân, thấy bà Điểm đang soi gương bên cửa sổ, bèn nói: Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm. (Soi gương kẻ lông mày, một nét hoá ra hai nét) Bà Điểm đối ngay: Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân. (Tới ao xem trăng, một vầng thành ra hai vầng). “Điểm” (chấm, nét), “luân” (vòng, vầng), chúng cùng âm với tên hai anh em bà Điểm, ông Luân. Ngụy Vô Kị, Trưởng tôn Vô Kị, bỉ vô kị, ngã diệc vô kị.
2. Dùng một tổ hợp để biểu thị hai từ ngữ cùng âm a. Câu đối tiếng Việt * Lúc Trần Tế Xương mất, Nguyễn Khuyến có câu đối viếng: Kìa ai chín suối xương không nát; Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn. “Xương” là xương cốt (tng: “Sống gửi nạc, thác gửi xương”), cùng âm với tên người được viếng.
* Lê Trung Đình lúc mới mười lăm tuổi đã tỏ ra xuất chúng. Một lần, Tuần phủ Điện đùa Đình một vế đối: Đình xiêu giữa chợ, ăn mày ngủ. Đình đối ngay: Điện tế bên đường, chó đói ăn. “Đình”, “điện”, những nơi thờ cúng, là hai danh từ chung, cùng âm với Đình, Điện, tên của người thách, kẻ đối.
b. Câu đối chữ Hán * Trong một chuyến đi sứ sang Tàu, Mạc Đĩnh Chi có lần chẳng may sa chân xuống một cái hố bên mép cầu. Đoàn sứ giả chạy lại đỡ ông dậy. Để đùa vui, họ ra cho ông một vế đối: Can mộc hoành cừ, lục giả tương như tự đạo. (Gỗ thẳng, cầu ngang, đường đi ngỡ là đất phẳng) Vế đối này hóc hiểm ở chỗ, có năm tên người cùng âm (mỗi tên hai âm tiết): Can Mộc (Đoàn Can Mộc, một nhân vật thời Chiến Quốc); Hoành Cừ (tên hiệu của Trương Tái, một triết gia đời Bắc Tống); Lục Giả (người giỏi biện luận, từng giúp Hán Cao Tổ); Tương Như (Lạn Tương Như, một nhân vật thời Chiến Quốc); Tự Đạo (Giả Tự Đạo, người nước Tống, một quyền thần chuyên chế).
Mạc Đĩnh Chi nhìn quanh, thấy bên kia sông có cái đình dưới chân núi, bèn chỉ đình mà đối: Đại đình an thạch, vọng chi nghiễm nhược Thái Sơn. (Đình to, đá vững, thoạt trông như thể Thiên Thai) Vế đối lại cũng ghép các tên người: Đại Đình (một tên hiệu của Thần Nông); An Thạch (Vương An Thạch, một nhân vật đời Tống); Vọng Chi (người đời Hán, làm phụ chính cho Hán Nguyên Đế) (hai tên sau chưa tra cứu được).
Câu đối chơi chữ theo cách cùng âm là một bộ phận câu đối có giá trị trong kho tàng câu đối nói riêng, trong nền văn học dân tộc nói chung. Những trình bày và phân tích, lí giải ở đây tuy chưa thật đầy đủ, sâu sắc, nhưng về cơ bản cũng cho thấy được diện mạo vấn đề, sự thú vị của nó, hòng giúp bạn đọc thưởng lãm. T.N. (169/03-03)
|