(2) Cậy cùng đèn hạnh tim lê, Mực mài nước mắt, thơ đề chéo khăn.
(3) Em nghe tin anh dóng dả ra về, Tay em khêu cây đèn hạnh, tay em đề câu thơ.
(4) Hát lên ta nhởi ta chơi, Mấy khi đèn hạnh soi nơi quyển vàng.
(5) Chàng ở bạc chớ thiếp không bạc, Bởi con dao vàng sút ngạc, nên đèn hạnh lu li; Chờ chàng ba bốn năm ni, Trông không thấy bóng, thiếp phải đi lấy chồng.
Bài (1), (3) và (4) từ hát phường vải Nghệ Tĩnh; bài (5) thuộc ca dao Bình Trị Thiên; còn bài (2) chép lại từ hai bộ sưu tập ca dao trên phạm vi toàn quốc, không ghi xuất xứ địa phương.
Theo Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giao (Ca dao Nghệ Tĩnh, Sở Văn hóa và Thông tin Nghệ Tĩnh, 1984, tr. 419), thì "đèn hạnh" là "loại đèn lồng; tán bằng giấy trắng, ngày xưa thường dùng nơi bàn học". Và như vậy, thì nói đèn hạnh" không khác khi nói về "đèn bão", "đèn hiệu", "đèn pha", "đèn xếp",..., vì chúng đều có ý nghĩa biểu vật rõ ràng.
Nhưng cho dù có một loại "đèn hạnh" như đã miêu tả, thì nó vẫn không thỏa đáng về nghĩa, khi xem xét các bài ca dao cụ thể. Chẳng hạn, với bài (2), do sự tương ứng về nghĩa với "tim (bấc) lê", mà "hạnh" trong "đèn hạnh" có nét nghĩa quả hạnh (quả mận); và với bài (4), thì chuyện "thường dùng nơi bàn học" của "đèn hạnh" bị phủ định. Như vậy, "đèn hạnh" có thể đã khoác một ý nghĩa hàm chỉ, đối lập với ý nghĩa tiểu vật đã nêu. Một ý nghĩa như vậy thường được tìm thấy không phải ở chủng loại sự vật ở cấp độ cao, mà ở chủng loại sự vật ở cấp độ thấp, xét về mặt cấu trúc; cụ thể ở đây, không phải "đèn" mà là "đèn hạnh", với định ngữ "hạnh" trong các kết hợp tương tự.
Các kết hợp này có thể tìm thấy trong ca dao qua một số dạng sau: + Gió đưa buồm hạnh rảnh rang, Tiếng nhơ thiếp chịu, để chàng danh thơm.
+ Tới đây phân rẽ đôi đường, Đó lui buồng hạnh, cố hương đây về.
+ Đèn chong phòng hạnh biếng xem, Phải chi trời định anh với em vợ chồng. + Hai trái ổ qua đặt trên bàn hạnh, Em nghiêng ve ngọc, anh chuốc chén rượu đào Để người quân tử chí cao, Đủ mùi tanh ngọt, thiếp mới trao ân tình. + Em có chồng rồi, bớt ngọn tóc mai, Bớt cái khăn chéo hạnh, kẻo trai tơ lầm. - Trai lầm, trai phải mang gông, Cái khăn chéo hạnh của chồng em cho.
+ ... Nhắn nhe vườn hạnh Ngồi đợi chim xanh Khéo đưa tình Đưa lại cho ta... (Mảnh trăng thề, Ca Huế)
Không có sự phân biệt về loại giữa buồm hạnh, buồng hạnh, phòng hạnh, bàn hạnh, khăn chéo hạnh và vườn hạnh với các loại buồm, buồng, phòng, bàn, khăn chéo và vườn; nhưng có thể xác định chúng là vật thuộc quyền sở hữu của phụ nữ, và thuộc vào các ngữ cảnh nói về sự hi sinh, khôn khéo hay chung thủy, đợi chờ. Qua đó, có thể nhận ra ý nghĩa chung của định ngữ "hạnh", là "nết tốt của người phụ nữ".
Trở lại với "đèn hạnh" ở nét nghĩa vừa nêu của "hạnh", chúng ta có được một hình ảnh vừa cụ thể (đèn thắp sáng) vừa biểu trưng (tiết hạnh, phẩm chất của người phụ nữ). Do tính chất phát sáng và hình dáng trắng tròn của cây đèn hạnh trong thực tiễn, mà nó gợi nên sự liên tưởng về thân phận của người phụ nữ ở mặt phẩm tiết.(1) Quá trình tạo nghĩa ẩn dụ (mang tính biểu trưng) này, đồng thời cũng là quá trình biến đổi nghĩa của định ngữ "hạnh", từ địa hạt hình vóc (rất có thể là quả hạnh) đến lĩnh vực tinh thần (là phẩm hạnh). Nét nghĩa này của "đèn hạnh" tỏ ra thỏa đáng với năm bài ca dao đã dẫn, cả trường hợp của truyện thơ dân gian Mã Phụng Xuân Hương, ở lời thư của bà Phó gửi cho chồng: "Biết bao giờ có sớ triệu hồi; kẻo thiếp chịu mồ côi đèn hạnh?".
Một vấn đề nữa, thiết nghĩ, cũng nên đặt ra ở đây, là những bài ca dao có dùng hình ảnh "đèn hạnh", hầu hết thuộc Nghệ Tĩnh - Bình Trị Thiên; còn số những bài ca dao dùng "buồm hạnh", "buồng hạnh", "phòng hạnh"... vừa dẫn, lại có xuất xứ từ Bình Trị Thiên đến Nam Bộ. Điều này cho phép nhận xét: 1. Sự nhân rộng định ngữ "hạnh" trong các kiểu kết hợp cho thấy sự nhạy cảm về vấn đề, ở các địa bàn là chủ nhân của chúng; và 2. Sự hình thành một ẩn dụ mang tính biểu trưng (biểu tượng), đòi hỏi hình ảnh làm nền (cái biểu đạt) phải có những thuộc tính bền vững và tạo được các liên tưởng tương ứng, điều này ca dao có lúc phải tốn cả thế kỉ mới tạo dựng xong, mà "đèn hạnh", xét về mặt chất lượng, không gian và thời gian sáng tác, lưu truyền và diễn xướng, tỏ ra đáp ứng được.
Nếu xem "hạnh" là chất lửa thì sự phát sáng của nó chỉ "bền bỉ" hơn, "kín đáo" hơn, "được quý trọng" hơn và cả "trí tuệ" hơn, khi nó đến được với "đèn" và trở thành "đèn hạnh". Tập hợp những cái "hơn" này là nội hàm của "đèn hạnh". Đó chính là cái phẩm tiết của người phụ nữ đã nói.
T.N (128/10-99)
------------------------------------------------- (1) Trong ca dao, đã có một sự liên tưởng tương tự, là hình ảnh "lập bồn" (xem Triều Nguyên 1995. "Lập bồn, lập vườn với nghĩa ẩn dụ mang tính ước lệ trong ca dao xứ Huế" - Tập nghiên cứu Văn hóa dân gian Thừa Thiên Huế 12-95, tr. 55-58); và cũng có một sự liên tưởng gần gũi khác, là hình ảnh "bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương (Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non; Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, Mà em vẫn giữ tấm lòng son.)
|