Những vấn đề di sản
Đôi điều suy nghĩ về giá trị di sản Hán Nôm Huế
08:30 | 23/11/2022


VÕ VINH QUANG

Đôi điều suy nghĩ về giá trị di sản Hán Nôm Huế
Ảnh: tư liệu

1. Di sản Hán Nôm Huế - những nét tổng quan

Xứ Thuận Hóa nói chung, cố đô Huế nói riêng được xem là vùng biên viễn của Đại Việt từ thời Lý, Trần, Hồ, Lê, là trung tâm của thời các chúa Nguyễn, Tây Sơn, đỉnh cao là Kinh đô Huế thời vua Nguyễn (1802 - 1945). Bởi vậy, xứ sở này giao thoa, hội tụ và lan tỏa nhiều di sản văn hóa đặc trưng như văn hóa Sa Huỳnh, Chăm Pa, Đại Việt cũng như các dòng văn hóa ngoại quốc (Trung Quốc, Nhật Bản, phương Tây như Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Hà Lan...). Trong đó, di sản văn hóa Hán Nôm là nguồn di sản tiêu biểu của vùng đất Thần kinh1.

Di sản Hán Nôm là cầu nối, là thông điệp quan trọng bằng ngôn ngữ viết để nối kết xưa nay, góp phần giữ gìn và phát huy giá trị lịch sử văn hóa truyền thống của dân tộc.

Di sản Hán Nôm Huế hiện tồn trên các loại hình tư liệu gốc (sách vở thư tịch, văn khắc Hán Nôm...) mặc dù hiện diện phổ biến khoảng năm thế kỷ trở lại đây (từ thế kỷ XVI về sau2) song lại có số lượng và nội hàm ý nghĩa khá đa dạng, phong phú.

Tất cả những vấn đề về lịch sử văn hóa xã hội từng thời kỳ, cũng như trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao ở các triều đại trong lịch sử nói chung, các thể chế chính trị từng hiện diện trên đất Huế nói riêng, đều được lưu giữ thông qua các văn bản, tư liệu Hán Nôm. Đó là chưa kể những dấu ấn về truyền thống làng xã, các phong tục, tục lệ, hương ước, gia phong lễ giáo… làm nền tảng giúp duy trì và xây dựng, phát triển toàn diện quê hương, đất nước… đều được kết tinh thông qua nguồn tư liệu Hán Nôm.

Nhìn một cách tổng quan, di sản Hán Nôm Huế đang tồn tại ở các gia tộc, làng xã, đình chùa miếu vũ tại Huế hiện nay như sau:

- Hệ thống thư tịch (sách vở) Hán Nôm truyền thống Huế:

Đây là nguồn tư liệu đồ sộ, đa dạng và phong phú về thể loại, trải dài trên tất cả các lĩnh vực (như địa lý, kinh tế, ngoại giao, quân sự, văn học nghệ thuật, lịch sử...). So với nguồn tư liệu Hán Nôm liên quan đến Huế ở các Thư viện, các Trung tâm lưu trữ quốc gia và địa phương, thì hệ thống tư liệu tại các tư gia, làng xã của đất Huế có thể nói là nhiều hơn gấp bội.

Hiện nay, mặc dầu chưa có một thống kê cụ thể về số lượng thư tịch Hán Nôm Huế, song ước chừng cũng có hàng triệu tư liệu sách vở Hán Nôm đang hiện hữu ở các gia tộc, làng xã (chưa tính nguồn tư liệu cung đình thời các chúa Nguyễn, Tây Sơn và triều Nguyễn).

Chỉ tính hơn 10 năm triển khai số hóa tư liệu Hán Nôm ở các làng xã xứ Huế, Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh kết hợp với Thư viện Tổng hợp tỉnh Thừa Thiên Huế và Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế (trong 2 năm 2018, 2019), số lượng trang tư liệu Hán Nôm được số hóa lên đến “330.000 trang tài liệu Hán - Nôm và các văn bản khác có giá trị, ý nghĩa lịch sử tại 14 phủ đệ, 164 làng, đền thờ, nhà vườn, hơn 610 họ tộc trên địa bàn3 thuộc đủ tất cả các lĩnh vực như sắc phong, chế phong, chiếu chỉ, ngự bút thơ văn, lệnh chỉ, văn khế, địa bạ, điền bạ… Hiện nay vẫn còn nhiều làng (khoảng 150 thôn, làng4) chưa được số hóa và tư vấn bảo quản, đó là chưa kể nhiều gia tộc trong các địa phương vì nhiều lý do nhất định nên chưa phối hợp số hóa. Như vậy, có thể thấy, số lượng tư liệu Hán Nôm hiện tồn ở Huế còn vô cùng đồ sộ5.
 

Ảnh 1: Văn bản quý: “Ngự chế Nguyên nhật tứ yến thị quần thần” do vua Tự Đức ngự bút, hiện được bảo lưu tại nhà thờ danh nhân Cao Hữu Dực ở làng Thế Chí Đông, xã Điền Hải, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. (Ảnh: Võ Vinh Quang, 2018)

- Hệ thống văn khắc Hán Nôm hiện tồn:

So với hệ thống thư tịch (sách vở) Hán Nôm, thì loại hình văn bản Hán Nôm Huế trên các di tích, di vật (gọi chung là văn khắc Hán Nôm) hiện tồn có số lượng và quy mô ít hơn, nhưng vai trò và vị thế của loại hình này không hề thua kém, thậm chí xét trên một số tiêu chí cụ thể thì còn có giá trị hơn thư tịch Hán Nôm, nhất là về tính đặc sắc, độc bản và liên quan trực tiếp đến truyền thống văn hóa của nhiều ngành nghề cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể của vùng đất có truyền thống văn hóa sâu rộng này.

Có thể kể đến các loại hình cụ thể như văn khắc trên đá (văn bia, câu đối, hoành phi Hán Nôm), văn khắc trên đồng-bạc-vàng (văn chuông, văn khắc trên đỉnh đồng, lư đồng, trên các khám bạc, ấn chương của vua quan thời Nguyễn bằng vàng, bạc, đồng…), văn khắc trên gỗ (hoành phi, câu đối, mộc bản cung đình Huế và mộc bản Chùa Huế, sắc phong hoặc các loại hình văn bản khác khắc trên chất liệu gỗ như bài thơ, lời huấn thị, lời di chúc, gia phong lễ giáo, và một trong những loại văn khắc trên gỗ đặc trưng đó là Hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế đã được Ủy ban Di sản ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương (MOWCAP) công nhận là Di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương) …

Theo điều tra sơ bộ của chúng tôi, số lượng văn bia văn chuông Hán Nôm tại Huế có khoảng trên 500 đơn vị, trong đó văn bia Hán Nôm chiếm khoảng 90%. Trong đó, có nhiều văn bia, văn chuông mang giá trị đặc biệt như văn bia Ngự kiến Thiên Mụ tự (1715) do quốc chúa Nguyễn Phúc Chu ngự soạn, được xếp hạng Bảo vật quốc gia; hay như quả chuông chùa Thiên Mụ (1710) cũng do quốc chúa Nguyễn Phúc Chu đứng tên cho đúc (hai bảo vật này hiện đặt tại nhà bia và nhà chuông ở chùa Thiên Mụ); văn bia Sắc tứ Hà Trung tự Hoán Bích thiền sư tháp ký minh (1729) ở tháp tổ Nguyên Thiều do Ninh vương Nguyễn Phúc Chú biên soạn (có 1 bản sao do hòa thượng Liễu Chơn Từ Hiếu chùa Quốc Ân tổ chức sao bản trên bia đá vào triều vua Tự Đức, hiện đặt tại nhà bia chùa Quốc Ân); văn bia tháp Hòa thượng Liễu Quán (1748) do hòa thượng Thiện Kế biên soạn, có ấn triện của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát; văn bia Việt cố Quý tần tặng Chiêu nghi Từ Mẫn liệt phu nhân mộ chí minh (1750) ở mộ của Chiêu nghi Trần Thị Xạ (phi tần của chúa Nguyễn Phúc Khoát) do Văn ban triều Võ vương Nguyễn Phúc Khoát biên soạn theo mệnh lệnh của chúa Võ; văn bia và văn chuông chùa Diệu Đế do chính vua Thiệu Trị biên soạn và cho tổ chức khắc in; hệ thống văn bia Thánh Đức thần công ở một số lăng vua nhà Nguyễn như Thiên Thọ lăng (lăng vua Gia Long), Hiếu lăng (lăng vua Minh Mạng), Xương lăng (lăng vua Thiệu Trị), Tư lăng (lăng vua Đồng Khánh), Ứng lăng (lăng vua Khải Định), văn bia Khiêm Cung ký do vua Tự Đức biên soạn (được xem là văn bia lớn nhất Việt Nam hiện tại và xếp hạng Bảo vật Quốc gia)…

Ngoài ra, còn có hệ thống văn bia tại Văn Thánh miếu, Võ Thánh miếu (39 văn bia), văn bia Thị học thi tính tự Huỳnh tự thư thanh ở trường Quốc tử giám triều Nguyễn (nay là Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế)... đều là những văn bia đặc biệt giá trị, thể hiện vai trò của Huế thời Nguyễn là cái nôi, là đất học, là nơi bồi dưỡng, đào tạo nhân tài trọng yếu của Việt Nam những thế kỷ XIX - XX.

Đấy có thể được xem là những văn khắc đặc trưng nổi bật của xứ Huế, đặt trong tiến trình văn hóa lịch sử Việt Nam.

Nhìn chung, tư liệu Hán Nôm của cố đô Huế hiện khá đồ sộ, và có giá trị cao, góp phần làm phong phú hơn cho lịch sử văn hóa nghệ thuật xứ Huế, cũng như đóng góp to lớn cho các lĩnh vực khác (như khảo cổ học, dân tộc học, mỹ thuật lịch sử…).
 

Ảnh 2: Văn bia “Ngự chế thi đề Diệu Đế tự hữu tự văn” của vua Thiệu Trị, đặt tại nhà bia chùa Diệu Đế - Huế. (Ảnh: Võ Vinh Quang).

2. Thực trạng của di sản Hán Nôm Huế

Di sản Hán Nôm Huế là một kho tàng văn hóa lớn của cố đô Huế. Nhiều năm qua, nguồn di sản đặc biệt này đã được nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước quan tâm khảo sát, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị. Thế nhưng, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hệ thống di sản Hán Nôm Huế vẫn còn đối diện với các thực trạng và thách thức không nhỏ trong việc bảo tồn và khai thác, phát huy hiệu quả các giá trị của nó.

- Trước hết, đó là thực tại về thời tiết, khí hậu và những tác động ngoại cảnh:

Thời tiết của Huế khá khắc nghiệt, với thời gian nắng nóng và mưa dầm rất dài, khiến cho độ ẩm trong không khí rất cao. Điều này tác động rất lớn đến các di sản Hán Nôm của Huế, nhất là đối với các nguồn tư liệu giấy (thư tịch), tư liệu văn khắc (như trên đá, gỗ…). Theo khảo sát của chúng tôi, nhiều năm qua các tư liệu thư tịch, văn khắc… trên đất Huế dần bị hư hỏng, mai một do thời tiết khắc nghiệt. Điển hình như hòm tư liệu giấy tờ gia phả sắc phong của họ Hồ - họ Khai canh làng Thượng An (Phong Điền, Thừa Thiên Huế), hệ thống giấy tờ địa bạ của làng Dương Xuân Thượng (phường Thủy Xuân, thành phố Huế), giấy tờ văn khế, địa bạ làng Nghĩa Lập (xã Vinh Phú, huyện Phú Vang)… đều đã bị hư hỏng, ngấm nước hoặc trôi mất. Nhiều văn bia, biển gỗ Hán Nôm hiện nay cũng xuống cấp nghiêm trọng (do không có nhà bia bảo quản, lại khắc cạn và bằng loại đá sa thạch, đá núi gan gà mau mòn). Điển hình như các văn bia Thát Bái châu, Quá Phổ Lợi hà bi ký, Kim Quang tự bi ký, Ba văn bia ngự chế thi của vua Thiệu Trị ở vườn Cơ Hạ - Đại Nội Huế ( giang thắng tích, Hồ tân liễu lãng, Tiên động phương tung), văn bia Thị học thi tính tự của vua Tự Đức, bia đá ở chùa Thiền Lâm (Điện Biên Phủ, Huế), cũng như nhiều văn bia đề danh tiến sĩ ở Văn miếu Huế (nhất là các văn bia Tiến sĩ các triều vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị, vua Tự Đức)…

- Do nhận thức về việc giữ gìn bảo quản chưa đúng đắn:

Nhiều làng xã, gia tộc, cộng đồng hiện nay có những quan niệm hiểu biết chưa phù hợp với hệ thống di sản Hán Nôm6, thậm chí có những quan điểm khá cực đoan (vì họ chưa hiểu rõ), khiến cho tình trạng di sản Hán Nôm Huế cũng ít nhiều bị ảnh hưởng.

Bên cạnh đó, vì đây là nguồn di sản quý hiếm, nên thời gian qua cũng bị “chảy máu” khá nhiều trên toàn quốc, trong đó có Thừa Thiên Huế. Thực tế có tình trạng một số cá nhân và nhóm người đi chèo kéo, “mồi chài” để mua bán, hoặc cũng có một số đối tượng lấy danh nghĩa “nhà nghiên cứu” để mượn tài liệu gốc nhưng rồi không trả lại cho gia tộc, khiến nhiều gia tộc, làng xã hiện nay có sự nghi ngờ, không tin tưởng khi tiếp đón, trao đổi với các cá nhân, tổ chức thực hiện về sau.

- Chưa thực sự có một tổ chức chính thống, uy tín của địa phương đứng ra tuyên truyền, tư vấn, hỗ trợ kinh phí và khoa học công nghệ, cũng như có những buổi tập huấn, hướng dẫn phương pháp bảo quản, phát huy giá trị… cho cộng đồng làng xã, các gia tộc nhằm định hướng bền vững cho loại hình tư liệu độc đáo này7.

- Các cấp chính quyền và các đơn vị quản lý, chuyên môn trong vài năm trở lại đây, mặc dù đã quan tâm hơn đến loại hình di sản Hán Nôm của Huế, nhất là những di sản văn hóa Hán Nôm cổ truyền gắn liền với cung đình triều Nguyễn, có giá trị đặc biệt mang tầm quốc gia và quốc tế (như mộc bản triều Nguyễn, châu bản triều Nguyễn, thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, hoặc như các nguồn tư liệu Hán Nôm khẳng định chủ quyền biển đảo Việt Nam trong lịch sử...), tuy nhiên sự quan tâm ấy dường như chỉ tập trung vào một số mảng tư liệu nhất định, chưa có chiến lược cụ thể và lâu dài, mang tầm nhìn dài hạn để bảo tồn và phát huy các giá trị di sản Hán Nôm Huế trong tiến trình phát triển của Thừa Thiên Huế trong tương lai.
 

Ảnh 3: Văn bia Thị học thi tính tự đối diện cửa Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế. (Ảnh: Nguyễn Phúc Bảo Minh)


3. Một số ý kiến đề xuất để bảo tồn và phát huy giá trị di sản Hán Nôm Huế

Để bảo tồn và phát huy giá trị nguồn di sản Hán Nôm Huế hiện nay, chúng tôi xin nêu một số ý kiến như sau:

- Đẩy mạnh thu thập nguồn tư liệu Hán Nôm Huế hiện tồn ở trong và ngoài nước: Huế vốn là trung tâm hành chính chính trị của Đàng Trong thời chúa Nguyễn, và là kinh đô của đất nước triều vua Nguyễn, nên nguồn tư liệu liên quan đến Huế (và Đàng Trong nói chung) không chỉ có giá trị địa phương, mà rất quan trọng đối với lịch sử văn hóa của quốc gia dân tộc. Nguồn tư liệu này, do quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa cũng như sau nhiều biến động của thời cuộc, hiện nằm tản mác ở khắp nơi trong và ngoài nước.

Bởi thế, để xây dựng Huế trở thành trung tâm văn hóa đặc sắc của Việt Nam phù hợp với tầm nhìn phát triển Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương theo tiêu chí thành phố di sản đặc thù, thiết nghĩ các tổ chức, các cơ quan hữu trách cần tiến hành hợp tác trao đổi với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước nhằm phối hợp chia sẻ tư liệu, để dần xây dựng và đẩy mạnh khai thác các giá trị của kho tư liệu Hán Nôm Huế và triều Nguyễn.

- Công tác số hóa di sản Hán Nôm Huế cần gắn liền với việc phân loại, nghiên cứu và phát huy giá trị di sản:

Thời gian qua, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản Hán Nôm Huế đã được triển khai khá mạnh mẽ và đồng bộ. Nếu như khoảng 10 năm trước đây, công tác số hóa bằng scan, chụp ảnh kỹ thuật số diễn ra lẻ tẻ và do một số tổ chức, cá nhân nhỏ thực hiện (tư liệu sử dụng hạn chế trong phạm vi các cá nhân, các tổ chức ấy), thì nay đã được tiến hành một cách chuẩn chỉnh, khoa học và hợp lý hơn.

Theo chúng tôi được biết, việc số hóa tư liệu Hán Nôm bằng công nghệ tiên tiến ở Huế hiện nay đang được các tổ chức trong và ngoài tỉnh phối hợp đẩy mạnh. Bên cạnh sự kết hợp giữa Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh với Thư viện Tổng hợp tỉnh Thừa Thiên Huế và Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, còn có sự phối hợp số hóa với Đại học Temple, Philadelphia, Hoa Kỳ (đại diện là TS. Ngô Thanh Nhàn, TS. Nguyễn Trung Việt, GS. Mark McLeod, PGS. TS Nguyễn Thị Ngọc Điểu...) với Thư viện Tổng hợp tỉnh Thừa Thiên Huế... Kết quả bước đầu của những hợp tác số hóa này là những tư liệu số hóa được biên mục sơ lược, góp phần gợi mở thêm nhiều hướng nghiên cứu mới cho Huế.

Tuy nhiên, bên cạnh việc số hóa, biên mục (có sự phối hợp nhuần nhuyễn của các chuyên gia Hán Nôm, chuyên gia công nghệ thông tin và cán bộ thuần thục công tác thông tin tư liệu...), thiết nghĩ chúng ta nên có sự hợp tác, đầu tư trọng điểm để đẩy mạnh công tác phân loại tư liệu Hán Nôm Huế, lập các bảng mã đồng nhất với cơ sở dữ liệu (nhất là chuẩn thông tin tư liệu Dublin core) để tạo điều kiện thuận lợi (trong đó có phần chia sẻ phi lợi nhuận, có phần chia sẻ hạn chế - có bản quyền, và phần độc giả, khách hàng truy cập có kinh phí...).

Trên cơ sở số hóa và phân loại tư liệu, chúng ta cần đầu tư nguồn kinh phí (có thể bằng ngân sách Nhà nước và sự kêu gọi tài trợ của các nhà hảo tâm) để khai thác, phát huy có hiệu quả các giá trị tư liệu đặc trưng, tiêu biểu trên nhiều lĩnh vực mà nguồn di sản Hán Nôm xứ Huế đem lại. Bởi lẽ, cho đến nay, dẫu có một số đề tài của các nhà nghiên cứu trong và ngoài tỉnh đã thực hiện về di sản Hán Nôm xứ Huế (như NNC Lê Nguyễn Lưu, Huỳnh Đình Kết, Trần Đại Vinh, Phan Đăng, Phan Thuận An... ở Huế, PGS.TS Nguyễn Văn Thịnh ở Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội chủ trì; gần đây có một số đề tài cấp tỉnh của ông Phạm Xuân Phượng...), song vẫn chưa thể hiện đầy đủ và bao quát tất cả những giá trị độc đáo mà di sản Hán Nôm Huế đang có.

Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi cần có sự vào cuộc quyết liệt và bài bản của các cấp thẩm quyền, sự đầu tư kinh phí công nghệ và đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn đội ngũ chuyên môn có tay nghề cao, có tính kế thừa...

- Cần thiết phải nhanh chóng xây dựng trung tâm Hán Nôm Huế:

Trong chiến lược phát triển văn hóa Huế, việc xây dựng trung tâm Hán Nôm Huế sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực, góp phần tạo nguồn lực mạnh mẽ để Huế phát triển bền vững dựa trên thế mạnh văn hóa du lịch. Xây dựng trung tâm Hán Nôm Huế bao gồm đào tạo, tuyển dụng, bồi dưỡng lực lượng nghiên cứu Hán Nôm, phát triển khoa học công nghệ liên quan đến việc bảo tồn và khai thác, phát huy giá trị di sản Hán Nôm, thông qua đó đẩy mạnh công tác tư vấn, tuyên truyền cho cộng đồng nắm vững phương pháp bảo tồn, phát huy di sản một cách tích cực. Bên cạnh đó, trung tâm Hán Nôm Huế được hình thành và phát triển, sẽ góp phần tạo điều kiện và động lực cho các lĩnh vực khác cùng phát triển vươn lên, phù hợp với định hướng chung và thống nhất của tỉnh Thừa Thiên Huế: “Xây dựng Huế thành đô thị di sản cấp quốc gia”.

- Cần đầu tư mạnh mẽ hơn nữa cho công tác tư vấn, bảo tồn các di sản Hán Nôm có nguy cơ sớm bị hư hỏng nặng, bị hủy hoại do thời tiết, thiên tai (như nhiều văn bia Hán Nôm hiện nay không có nhà che, khiến dần xuống cấp nặng nề; các biển gỗ, đố bản ở nhiều nơi chưa được tư vấn phương pháp bảo quản, chống mối mọt kịp thời. Các thư tịch ở gia đình họ tộc và làng xã hiện đang xuống cấp…).

Trên đây là một số ý kiến đề xuất cơ bản của chúng tôi, hy vọng rằng trong tương lai, di sản Hán Nôm Huế nói riêng và di sản văn hóa Huế nói chung sẽ được quan tâm hơn nữa, để góp phần bảo tồn và nêu bật vai trò vị thế của di sản Huế đối với lịch sử văn hóa địa phương, đất nước.

V.V.Q
(TCSH404/10-2022)

---------------------------
1 Thần Kinh 神京 là Kinh đô 京都, Thủ đô 首都, Đế đô 帝都, (THẦN 神: là tinh thần, thần khí, thần thái; KINH 京 Kinh sư - nơi tập trung và hội tụ tinh thần, thần thái, linh khí của toàn thể quốc gia. Bởi vậy Thần kinh là từ đặc trưng dùng chỉ Kinh đô của mỗi đất nước (khác với THẦN KINH 神經:: thuộc về bộ não, tâm thần). Thuật ngữ này vốn có ít nhất là từ đời Đường (Trung Quốc). Tác giả Trương Đại An 張大安(?-?) đời Đường trong bài “Phụng họa biệt Việt vương” 奉和別越王 (Toàn Đường thi, quyển 44) đã viết: “Lệ nhật khai phương điện, giai khí tích thần kinh (麗日開芳甸、佳氣積神京, trời đẹp bày thơm cõi, khí tốt tụ kinh đô).” Hay trong bài Tiểu Trùng Sơn (小重山) của Hòa Ngưng (和凝, 898-955) thời Ngũ Đại có đoạn: “Xuân nhập thần kinh vạn mộc phương, cấm lâm oanh ngữ hoạt, điệp phi cuồng (春入神京萬木芳、禁林鶯語滑、蝶飛狂, xuân đến đế đô cây cỏ thơm, vườn cấm oanh líu lo, bướm bay rối rít).” Trong bài Võ Xương Khởi Nghĩa Chân Sử (武昌起義真史) của Tào Á Bá (曹亞伯, 1875-1937) cũng có câu: “Bỉnh nhĩ bạch mao, báo nhĩ tiên đức, trùng tân Cửu Đỉnh, tái điện thần kinh (秉爾白茅、報爾先德、重新九鼎、再奠神京), nghĩa là: giữ vững ý chí người, báo đáp đức lớn người, trùng tu mới Cửu Đỉnh, tái thiết chốn thần kinh.” (Trích: https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat.../than-kinh-k5329.html).
Tại Việt Nam ta, nhiều thơ văn cũng sử dụng “thần kinh” và không hẳn chỉ dùng để chỉ Phú Xuân - Huế. Điển hình như bài Yên Trường xuân đán 安長春旦 (Sớm xuân ở Yên Trường) của Tồn Am - Bùi Huy Bích (1744- 1802) có câu: “Thần kinh dao vọng liên sơn ngoại, 神京遙望連山外” (Trông vời chốn Đế đô/kinh đô ngoài rặng núi). trích: https://www.thivien.net/.../poem-igRxPTxpmBtA0OqSVA2OEA.
2 Ở đây, chúng tôi không bàn đến các tư liệu thư tịch liên quan đến Huế ghi chép trong sử liệu, địa chí, văn hóa xa xưa của dân tộc; mà chỉ đề cập đến nguồn tư liệu Hán Nôm hiện tồn ở các gia tộc, làng xã, đình chùa miếu mạo tại Huế.
3 Theo số liệu được ghi chép trong bài “Tổ chức tập huấn bảo quản, phục hồi tài liệu Hán - Nôm, các tài liệu quý tại các thôn trên địa bàn tỉnh” (đăng ngày 05 tháng 11 năm 2021) của Thư viện Tổng hợp tỉnh Thừa Thiên Huế, link: https://thuvien.thuathienhue.gov.vn.
4 Theo ghi nhận ở bài “Tổ chức tập huấn bảo quản, phục hồi tài liệu Hán - Nôm, các tài liệu quý tại các thôn trên địa bàn tỉnh” (đăng ngày 05 tháng 11 năm 2021) đã dẫn ở trên.
5 Một trong những hệ thống thư tịch đặc biệt quan trọng và có số lượng lớn đó chính là tư liệu châu bản, địa bạ, sắc phong, giấy tờ của Huế và triều Nguyễn (hoặc liên quan đến Huế) nằm ở các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia (I, II, III, IV), Viện Nghiên cứu Hán Nôm,Viện Sử học, Viện Văn học, Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh… cùng các trường Đại học ở khắp nơi vẫn còn rất lớn, và chưa được điều tra, phân loại kỹ càng.
6 Trên thực tế, có rất nhiều quan niệm khá lệch lạc về di sản Hán Nôm ở cộng đồng làng xã: Người thì bảo đó là đồ của Trung Quốc, người thì nói đồ thờ của cha ông, giờ mình không biết nên cứ để vậy, mở ra làm gì… Lại thêm vào đó, hiện nay, nhiều kẻ bất hảo thường xuyên đột nhập ăn trộm ăn cắp các đồ vật quý trong các gia đình, đình làng, nhà thờ… khiến cho người dân rất ngờ vực đối với những người lạ. Vì thế họ không cho tiếp cận.
7 Vừa qua, một số tổ chức cá nhân trong quá trình triển khai khảo sát thu thập số hóa tư liệu (như Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam tại Huế, Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh…) đã có một số hướng dẫn, tư vấn bảo quản cho các gia tộc, làng xã. Tuy nhiên, việc làm đó mang tính cá thể, và đôi lúc chưa thực sự tư vấn một cách khoa học, nên không tránh khỏi nhầm lẫn, thiếu sót.

 

 

Các bài mới
Các bài đã đăng