Khảo cổ
‘Lập mộ chí bi’ - văn bia độc đáo và giá trị triều Tây Sơn
15:49 | 20/06/2025


VÕ VINH QUANG

‘Lập mộ chí bi’ - văn bia độc đáo và giá trị triều Tây Sơn
Dấu hiệu chữ “Nam cố” với niên đại tuyệt đối (1794) trên bia Lập mộ chí bi

1. Lời mở

Triều Tây Sơn mặc dù tồn tại khá ngắn ngủi trong lịch sử nước ta (khoảng từ 1777 - 1802), song vẫn để lại nhiều giá trị di sản văn hóa độc đáo. Thời gian qua, các nhà nghiên cứu đã không ngừng nỗ lực tìm hiểu, bạch hóa những thông tin giá trị về triều đại này, bao gồm các di sản Hán Nôm đặc sắc ở nhiều lãnh vực, trong đó có loại hình văn khắc Hán Nôm (gồm các loại hình bia đá, chuông đồng, biển gỗ, hoành phi câu đối…).

Đối với loại hình văn bia Hán Nôm thời Tây Sơn, chúng tôi thấy các địa phương miền Bắc hiện bảo tồn được một số lượng tương đối nhiều so với các vùng đất khác trên cả nước. Cụ thể, nhà nghiên cứu (NNC) Đinh Khắc Thuân thống kê được 338 thác bản văn bia triều Tây Sơn ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tập trung tại các tỉnh ở khu vực Bắc Bộ1.

Kế thừa thành quả nghiên cứu trước đó, tác giả Lê Văn Cường (năm 2009) trong Luận văn thạc sĩ của mình đã khảo sát và thống kê được 359 văn bia ở triều đại này (hơn 21 văn bia so với công bố của NNC Đinh Khắc Thuân trước đó); trong đó, phổ biến vẫn là dạng bia Hậu (với số lượng 251 văn bia)2.

Với số lượng 359 văn bia bao hàm nhiều nội dung đa dạng, hệ thống văn bia triều Tây Sơn so với các triều đại trước và sau (triều Lê Trịnh, chúa Nguyễn và vua Nguyễn) mặc dù không nhiều nhưng cũng không phải là quá ít. Đồng thời, các văn bia đó đã góp phần cung cấp rất nhiều thông tin về lịch sử, văn hóa, quan niệm truyền thống, tín ngưỡng thờ phụng, tên đất tên người... của một thời kỳ lịch sử đặc biệt ở nước ta vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Đặc biệt, số lượng thực chứng đấy (sẽ còn được bổ sung trong tương lai, với những phát hiện mới ở các địa phương khác) nhằm khẳng định rằng triều Nguyễn không hề có sự can thiệp khắt khe đến mức bắt buộc hủy hoại tất cả những dấu tích, dấu ấn triều Tây Sơn.

Riêng với các tỉnh miền Trung và miền Nam, cho đến nay vẫn chưa có một công trình thống kê và khảo cứu  nào về số lượng, nội dung cũng như giá  trị tư liệu văn bia Hán Nôm triều đại Tây Sơn.

Tại Huế và Quảng Trị, do những biến động lịch sử và thiên tai, nên khá hiếm khi xuất hiện loại hình văn bia Hán Nôm thời Tây Sơn trên những vùng đất ấy. Vào năm 2021, chúng tôi công bố bài viết “Văn bia triều Tây Sơn quý giá trên đất Huế: bài minh văn trên mộ Vũ Huân tướng quân Lê Viết Sinh”3 trên Tạp chí Sông Hương. Bài nghiên cứu dựa vào các thông tin tư liệu mang tính tiêu biểu của giai đoạn Tiền Nguyễn như motif hoa văn trang trí trên bia, chất liệu bia đá và đặc biệt là yếu tố “Nam cố” 南故 đặc trưng thời Tây Sơn để khẳng định đấy là một trong hai tấm bia đá triều Tây Sơn hiện hữu trên đất Huế (và là bản văn bia duy nhất của triều đại này ở xứ Thần Kinh). Nhờ đó, bài viết đã gây tò mò, ngạc nhiên cùng những hiệu ứng tích cực từ dư luận. Đa số mọi người đồng thuận và hoan nghênh những phát hiện giá trị trên; song cũng có một số ý kiến trái chiều cho rằng đấy không phải là văn bia triều Tây Sơn, tức họ cho rằng chúng tôi có sự nhầm lẫn.

Từ ý kiến phản biện đó4, chúng tôi tiếp tục khảo cứu kỹ hơn về các yếu tố liên quan, cung cấp những chứng cứ khoa học chuẩn xác cho kết luận về văn bia mộ ngài Lê Viết Sinh thuộc triều Tây Sơn của mình.

Nhờ sự hỗ trợ hình ảnh tư liệu của ông Lê Đức Thọ và các cán bộ Phòng Sưu tầm và Kiểm kê, Bảo quản thuộc Trung tâm Quản lý Di tích và Bảo tàng tỉnh Quảng Trị, chúng tôi được tiếp cận toàn văn văn bia “Lập mộ chí bi” - bản văn bia duy nhất và đặc biệt giá trị thuộc triều Tây Sơn ở vùng đất Quảng Trị (cho đến thời điểm hiện tại, theo khảo cứu của chúng tôi). Đây cũng chính là văn bia có chữ “Nam cố” với niên đại chính xác tuyệt đối là năm Giáp Dần, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 2 (1794), đủ để làm căn cứ khoa học vững chắc nhằm góp phần giải mã các dấu hiệu về “Nam cố” hiện hữu trên bia mộ thuộc triều Tây Sơn.

Thấy rằng, văn bia “Lập mộ chí bi” có nhiều giá trị đặc sắc về lịch sử văn hóa, văn học nghệ thuật ở triều Tây Sơn... ở bài viết này chúng tôi xin giới thiệu toàn văn cùng một số nhận định, lý giải nhằm góp phần nêu bật nét đặc trưng của tấm bia đá quý giá và độc đáo này.

2. Nguyên văn, phiên âm, dịch nghĩa văn bia “Lập mộ chí bi”

Theo thông tin từ nhà báo Trịnh Cao Nguyên trong bài “Kỳ lạ một khu lăng mộ cổ vẹn nguyên giữa vùng đất lửa”5 thì ngôi mộ và tấm bia đá “Lập mộ chí bi” 立墓誌碑 còn tương đối nguyên vẹn, nằm ở vườn nhà ông Phạm Quang Toan, thôn Tân Trại, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Văn bia gồm 2 mặt, mặt ngoài ghi dòng chữ “景盛二年孟春月穀日造作碑誌” Cảnh Thịnh nhị niên mạnh xuân nguyệt cốc nhật, tạo tác bi chí (ngày lành tháng Giêng năm Cảnh Thịnh thứ 2 [1794] tạo dựng bản bia chí) ở giữa lòng bia và hai câu đối (mờ chữ) ở diềm bia, mặt trong khắc toàn bộ bài văn bia.

Ảnh thác bản 2 mặt văn bia “Lập mộ chí bi” (nguồn: ảnh chụp của cán bộ Phòng Sưu tầm và Kiểm kê, Bảo quản thuộc Trung tâm Quản lý Di tích và Bảo tàng tỉnh Quảng Trị)


Hán văn

立墓誌碑

景盛二年歲次甲寅孟春月穀日,廣順府永灵縣永良總新寨社上村嗣子為初受該隊擢都指揮使掌奇官陞都司威毅侯范光章所有興作碑誌,以壽其傳.蓋聞父之道較若山高,母之情慈猶海闊.此嗣子所以戚戚于心也.眷惟顯考南故正荐顯灵高憑郡前舊朝阮主從水軍范相公,字剛直府君神位生於癸卯卒於戊戌安塟在傘處之原. 眷惟顯妣南故正荐顯灵前范公正室從嗣子初受該隊擢都指揮使掌奇官陞都司侯范氏号慈心孺人正位生於丙午卒於癸丑安塟在傘處之原.曰 :日征月邁雨憾風撞身後裏毛幸逢日轂慨自昔西山涼武粉書猶憶舊銘旌;顧而今北境回鄉黃壤慶霑新雨露.因刻石立碑以為之墓誌云 :

秀鍾洞海
地居新寨
父性剛賢 
母心慈愛
想其恩深
思其德大
有子克家 
從王于邁
與國咸休 
荷天寵賴
春日回鄉 
墓前端拜
事之如存 
敬之如在
厥後克昌 
必先有啟
因刻效行 
碑傳萬代景盛二年孟春月穀日造作碑誌

Phiên âm:

LẬP MỘ CHÍ BI

Cảnh Thịnh nhị niên tuế thứ Giáp Dần mạnh xuân nguyệt cốc nhật, Quảng Thuận phủ Vĩnh Linh huyện Vĩnh Lương tổng Tân Trại xã Thượng Thôn. Tự tử vi sơ thụ Cai đội, trạc Đô Chỉ huy sứ Chưởng cơ quan, thăng Đô ty Uy Nghị hầu Phạm Quang Chương sở hữu hưng tác bi chí, dĩ thọ kì truyền. Cái văn: phụ chi đạo giảo nhược6 sơn cao, mẫu chi tình từ do hải khoát. Thử tự tử sở dĩ thích thích vu tâm7 dã. Quyến duy: Hiển khảo Nam cố chánh tiến hiển linh Cao Bằng quận tiền cựu triều Nguyễn chúa tòng Thủy quân Phạm tướng công, tự Cương Trực phủ quân thần vị, sinh ư Quý Mão, tốt ư Mậu Tuất, an táng tại Cây Tán xứ chi nguyên. Quyến duy Hiển tỷ Nam cố chánh tiến hiển linh tiền Phạm công chánh thất, tòng tự tử sơ thụ Cai đội, trạc Đô Chỉ huy sứ Chưởng cơ quan, thăng Đô ty Hầu Phạm thị, hiệu Từ Tâm nhụ nhân chính vị, sanh ư Bính Ngọ, tốt ư Quý Sửu, an táng tại Cây Tán xứ chi nguyên.

Viết: nhật trưng nguyệt mại8, vũ hám phong chàng9, thân hậu lý mao, hạnh phùng nhật cốc. Khái tự tích Tây Sơn lượng vũ, phấn thư do ức cựu minh tinh10; cố nhi kim Bắc cảnh hồi hương, hoàng nhưỡng khánh triêm tân vũ lộ11. Nhân khắc thạch lập bi dĩ vi chi mộ chí vân:

Tú chung12 Động Hải13;            
Địa cư Tân Trại14;
Phụ tính cương hiền;             
Mẫu tâm từ ái.
Tưởng kì ân thâm;
Tư kì đức đại.
Hữu tử khắc gia15;
Tòng vương vu mại16.
Dữ quốc hàm hưu;
Hà thiên sủng lại.
Xuân nhật hồi hương;
Mộ tiền đoan bái17.
Sự chi như tồn;
Kính chi như tại.
Quyết hậu khắc xương;
Tất tiên hữu khải.
Nhân khắc hiệu hành;
Bi truyền vạn đại.

Cảnh Thịnh nhị niên mạnh xuân nguyệt cốc nhật tạo tác bi chí.

Dịch nghĩa:

BIA GHI NHỚ VIỆC DỰNG MỘ

Cảnh Thịnh năm thứ 2, ngày lành tháng mạnh xuân (tháng Giêng) năm Giáp Dần (1794), tại thôn Thượng xã Tân Trại tổng Vĩnh Lương huyện Vĩnh Linh phủ Quảng Thuận, con trai là Phạm Quang Chương thuở đầu nhận chức Cai đội, được cất nhắc lên chức quan Đô Chỉ Huy sứ, Chưởng cơ rồi thăng chức Đô Ty, tước Uy Nghị hầu biên soạn và dựng lập nên bài “bi chí” (văn bia ghi nhớ sự kiện) để truyền lại muôn đời. Trộm nghe: đạo của cha nhất quán như non cao, tình của mẹ hiền từ như biển rộng. Ấy nên, con trai luôn nôn nao (không yên) trong lòng.

Mến nghĩ: hiển khảo (cha đã khuất) Nam cố chánh tiến hiển linh Cao Bằng quận18 Phạm tướng công, vốn thời chúa Nguyễn trước đây, ngài theo nghiệp Thủy quân, tên tự [thụy] Cương Trực phủ quân thần vị. Ngài sinh vào năm Quý Mão (1724), mất năm Mậu Tuất (1778), an táng tại bãi đất ở xứ Tán.

Mến nghĩ: hiển tỷ (mẹ đã khuất) là bà họ Phạm, hiệu Từ Tâm nhụ nhân chánh vị, là vợ cả của ngài Nam cố chánh tiến hiển linh là ngài Phạm tướng công đã khuất, theo cùng con trai [Phạm Quang Chương] thuở đầu nhận chức Cai đội, được cất nhắc lên chức quan Đô Chỉ Huy sứ, Chưởng cơ rồi thăng chức Đô Ty, tước hầu. Bà sinh năm Bính Ngọ (1726), mất năm Quý Sửu (1793), an táng tại bãi đất ở xứ Tán.

Ngày qua đêm tới, mưa giật gió lùa; thân mình sau tấm áo thô, may mắn gặp ngày tụ họp. Than ôi, từ thuở xưa triều Tây Sơn mới dấy lên bằng võ nghiệp, chiếu thư ban mà ngõ hầu luyến nhớ đến minh tinh (mẹ cha đã khuất), trông lại nay từ đất Bắc về quê, [người dưới] suối vàng mừng được thấm nguồn ân trạch mới (của triều đình). Nhân đó [con trai] khắc đá lập bia, soạn bài mộ chí rằng:

Khí nguồn Động Hải
Sống vùng Tân Trại
Cha tính thẳng hiền
Mẹ lòng từ ái
Tưởng nhớ ân sâu
Nghĩ thương đức đại
19
Con nối nghiệp nhà
Theo vua lui tới
Cùng nước tốt lành
Nhờ trời luyến ái.
Ngày xuân về quê
Trước mồ trình vái
Thờ như người còn
Kính như người tại
Hậu thế rỡ ràng
Tiền nhân soi rọi.
Nhân khắc hoàn công
Bia truyền mãi mãi.

Cảnh Thịnh năm thứ 2 (1794), ngày lành tháng Giêng tạo tác bia chí.

3. Một số nhận định về giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bia “lập mộ chí bi” (thay lời kết luận)

Cùng với văn bia mộ ngài Vũ Huân tướng quân Lê Viết Sinh tại Huế, tấm bia đá “Lập mộ chí bi” đang hiện hữu tại thôn Tân Trại, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị này thực sự được xem là những “báu vật” đặc trưng của triều đại Tây Sơn. Bởi giá trị hàm chứa trong văn bia này không chỉ là “chìa khóa” quan trọng giải mã hệ thống văn bia “Nam cố” đang hiện diện ở nhiều nơi tại vùng Trung Trung Bộ là bia đá triều Tây Sơn, mà còn góp phần khẳng định rằng trình độ văn chương nghệ thuật của quan viên triều đại ấy cũng khá uyên thâm, với cách sử dụng hệ thống ngôn từ uyển chuyển và chuẩn xác về điển tích điển cố.

Bàn về “Nam cố”, qua nghiên cứu và khảo chứng hệ thống bia mộ có liên quan tại xứ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn (từ Quảng Bình trở vào Nam Bộ), chúng tôi thấy dạng thức bia “Việt cố”20 là những bia mộ chỉ người đã khuất (quá cố) được sinh ra vào thời chúa Nguyễn, và theo nhà chúa Nguyễn. Ngược lại, những văn bia “Nam cố” mang tính đặc trưng dùng chỉ những vị quá cố thuộc triều Tây Sơn và theo nhà Tây Sơn. Số lượng bia “Nam cố” hiện tại được phát hiện khá ít. Theo khảo sát của chúng tôi trong nhiều năm qua, loại hình văn bia “Nam cố” ở triều Tây Sơn chỉ phổ biến tồn tại trong một số địa phương từ Quảng Trị vào đến Quảng Nam. Cũng bởi sự khan hiếm dạng thức bia “Nam cố” như vậy, nên trước nay giới nghiên cứu chỉ đưa ra suy đoán dựa vào các yếu tố liên đới, chứ không đủ căn cứ vững chắc. Và vì thế, nên cũng có không ít ý kiến cho rằng các căn cứ “suy đoán” trên chưa đủ tính chuẩn xác, chỉ nên đưa vào dạng tồn nghi.

Vấn đề dạng thức “Nam cố” thực sự thuộc triều Tây Sơn hay không chính thức được ngã ngũ bởi nội dung của văn bia “Lập mộ chí bi” quý giá này. Bởi, “Lập mộ chí bi” được lập vào năm Giáp Dần niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 2 (1794), và nội dung có đoạn ghi rõ: “Quyến duy: Hiển khảo Nam cố chánh tiến hiển linh Cao Bằng quận tiền cựu triều Nguyễn chúa tòng Thủy quân Phạm tướng công, tự Cương Trực phủ quân thần vị... Quyến duy: Hiển tỷ Nam cố chánh tiến hiển linh tiền Phạm công chánh thất” 眷惟顯考南故正荐顯灵高憑郡前舊朝阮主從水軍范相公,字剛直府君神位...眷惟顯妣南故正荐顯灵前范公正室 (Mến nghĩ: Hiển khảo Nam cố chánh tiến hiển linh Cao Bằng quận21 Phạm tướng công, vốn triều chúa Nguyễn trước đây, ngài theo nghiệp Thủy quân, tên tự [thụy] Cương Trực phủ quân thần vị... Mến nghĩ: Hiển tỷ là bà họ Phạm, vợ cả của ngài Nam cố chánh tiến hiển linh là ngài Phạm tướng công đã khuất...). Dấu hiệu “Nam cố” 南故 trên văn bia “Lập mộ chí bi” năm Cảnh Thịnh thứ 2 (1794) là căn cứ khoa học chuẩn xác nhất để khẳng định loại hình bia đá “Nam cố” thuộc triều đại Tây Sơn.

Nói về trình độ văn chương nghệ thuật khá uyên thâm của quan viên triều đại Tây Sơn, căn cứ vào nội dung bài “Lập mộ chí bi”, chúng tôi thấy rằng tác giả bài văn bia sử dụng điêu luyện điển tích, điển cố nhằm biểu đạt đầy đủ ý tứ và tình cảm kính quý của mình đối với song thân quá cố. Chẳng hạn, ở đoạn mở đầu, tác giả viết: “...phụ chi đạo giảo nhược sơn cao/ mẫu chi tình từ do hải khoát” 父之道較若山高,母之情慈猶海闊 (đạo lý của cha nhất quán như non cao, tình cảm của mẹ hiền từ như biển rộng). Đây là câu văn chuẩn đăng đối, biểu đạt được ý tình kính quý, ghi nhớ công đức sinh thành của cha mẹ tác giả. Tiếp đó, tác giả bộc lộ: “Thử tự tử sở dĩ thích thích vu tâm” 此嗣子所以戚戚于心 (Ấy nên con trai [chỉ tác giả Phạm Quang Chương] do vậy luôn nôn nao trong lòng). Thành ngữ “thích thích vu tâm” 戚戚于心 được lẩy ý từ câu “Phu Tử ngôn chi, ư ngã tâm hữu thích thích yên” 夫子言之,於我心有戚戚焉 (Phu tử [chỉ Mạnh Tử] nói về điều đó khiến cho lòng tôi luôn lo nghĩ vậy thay) trích trong sách Mạnh Tử孟子, mục Lương Huệ Vương Thượng 梁惠王上. Ở đây, tác giả đã rất tài năng khi sử dụng thành ngữ “thích thích vu tâm” để bộc lộ rõ nét tấm lòng đắn đo lo nghĩ hòng mong báo đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.

Điều ấy chứng tỏ rằng văn phong chữ nghĩa của Uy Nghị hầu Phạm Quang Chương - một viên quan triều Tây Sơn - không hề thua kém tí nào đối với các văn thần những triều đại trước và sau đó.

Hoặc như đoạn văn tiếp theo: “...nhật trưng nguyệt mại, vũ hám phong chàng; Thân hậu lí mao, hạnh phùng nhật cốc. Khái tự tích Tây Sơn lượng vũ, phấn thư do ức cựu minh tinh; cố nhi kim Bắc cảnh hồi hương, hoàng nhưỡng khánh triêm tân vũ lộ” 日征月邁雨憾風撞身後裏毛幸逢日轂慨自昔西山涼武粉書猶憶舊銘旌;顧而今北境回鄉黃壤慶霑新雨露 (Ngày qua đêm tới, mưa giật gió lùa; thân mình sau tấm áo thô, may mắn gặp ngày tụ họp. Than ôi, từ thuở xưa triều Tây Sơn mới dấy lên bằng võ nghiệp, chiếu thư ban mà ngõ hầu luyến nhớ đến minh tinh (mẹ cha đã khuất), trông lại nay từ đất Bắc về quê, [người dưới] suối vàng mừng được thấm nguồn ân trạch mới).

Đấy cũng là đoạn văn đặc sắc, câu văn đăng đối, điển tích được dùng điêu luyện và đem lại cảm giác tự nhiên, không chút gì gượng ép câu chữ. Sự điêu luyện trong văn phong của tác giả bài văn bia ở đây còn thể hiện rõ ở câu văn: “Khái tự tích Tây Sơn lượng vũ, phấn thư do ức cựu minh tinh; Cố nhi kim Bắc cảnh hồi hương, hoàng nhưỡng khánh triêm tân vũ lộ. Câu văn này không chỉ thể hiện tính đăng đối chuẩn chỉnh, đầy nhịp điệu và âm điệu trầm bổng mang “nhạc tính” cao, khiến độc giả rất thích thú khi đọc, mà còn thể hiện nét độc đáo, uyển chuyển của người viết khi lẩy ý (mượn và thêm thắt chữ nghĩa, ý tứ) từ hai câu thơ ở bài Trì Châu Lý Sứ quân một hậu thập nhất nhật, Xử Châu tân mệnh thủy đáo, hậu kiến quy kỹ cảm nhi thành thi  池州李使君沒後十一日處州新命始到後見歸妓感而成詩 (Thất ngôn bát cú Đường luật) của thi nhân Đỗ Mục 杜牧 (803-852) đời Đường.

Trong quan niệm truyền thống của phương Đông, với tiêu chí “thuật nhi bất tác” (phỏng thuật lại theo châm ngôn, điển tích của người xưa, chứ không tự sáng tác), các tác giả cần có sự học tập, tích lũy tri thức rất lớn từ “thiên kinh vạn quyển” của cổ nhân, để từ đó mà áp dụng, sử dụng chuẩn xác vào từng ngữ cảnh cụ thể. Ở đây, Uy Nghị hầu Phạm Quang Chương đã vận dụng một cách điêu luyện uyển chuyển từ câu văn trong nguyên tác của thi nhân Đỗ Mục là: “Hoàng nhưỡng bất tri tân vũ lộ; Phấn thư không hoán cựu minh tinh” 黃壤不知新雨露,粉書空換舊銘旌 (Người dưới suối vàng chẳng biết mà tắm táp nguồn ân trạch mới, Chiếu thư của vua không thay đổi ý tình đối với người đã khuất), để từ đó tác giả lẩy ý (mượn và thêm thắt ý), điều chuyển hai câu thơ thành hai phần sau của cặp câu văn đầy chuẩn đối:

“Khái tự tích Tây Sơn lượng vũ, phấn thư do ức cựu minh tinh;
Cố nhi kim Bắc cảnh hồi hương, hoàng nhưỡng khánh triêm tân vũ lộ
.

Tóm lại, xét về trình độ học thuật cũng như trí tuệ uyên bác trong văn chương nghệ thuật, Uy Nghị hầu Phạm Quang Chương - tác giả của văn bia “Lập mộ chí bi” viết về cha mẹ quá cố của mình - xứng đáng được xem là một văn nhân xuất chúng ở triều Tây Sơn; và bản văn bia trên cũng được xếp vào hàng tác phẩm văn chương rất giá trị, góp phần bổ khuyết thêm nguồn tư liệu quý cho nền văn học nghệ thuật của triều Tây Sơn.

Về phương diện diên cách tên gọi của vùng đất, văn bia “Lập mộ chí bi” giúp chúng ta xác định tên gọi làng Tân Trại triều Tây Sơn (thời điểm Cảnh Thịnh năm thứ 2 - tức năm 1794) là thôn Thượng xã Tân Trại tổng Vĩnh Lương huyện Vĩnh Linh phủ Quảng Thuận. Đấy cũng là một đóng góp quan trọng cho việc tìm hiểu về địa chí của địa phương, cũng như của vùng đất Quảng Trị xưa.

Tóm lại, ngôi mộ dòng họ Phạm Quang ở làng Tân Trại (Vĩnh Thành, Vĩnh Linh, Quảng trị) và văn bia “Lập mộ chí bi” được xem là một trong số ít những di vật lịch sử đặc biệt quan trọng, liên quan đến triều Tây Sơn trên đất Quảng Trị. Hơn thế nữa, văn bia “Lập mộ chí bi” với những giá trị tiêu biểu trên nhiều bình diện, nội dung đặc sắc, là “chứng nhân” của thời kỳ Tây Sơn, đóng góp không nhỏ cho việc giải mã các câu chuyện về lịch sử của triều đại này... thực sự xứng đáng và xứng tầm là một báu vật mang tầm quốc gia mà không nơi nào có được. Thiết nghĩ, các cơ quan chức năng của Quảng Trị cần thiết có sự quan tâm sâu sát để lập hồ sơ di tích, nhằm bảo vệ di vật đặc biệt đó, góp phần khẳng định và nêu bật truyền thống văn hóa quý báu của tỉnh nhà.

V.V.Q
(TCSH435/05-2025)

-----------------------
1 Bài viết “Bia đá chuông đồng thời Tây Sơn” của Đinh Khắc Thuân đã thống kê được 338 văn bia thời Tây Sơn trong danh mục thác bản ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, cụ thể: “Bia đá, đồng thời Tây Sơn hầu hết đã được in rập vào lưu giữ tại Trung ương và địa phương. Tỉnh Hải Dương: 66 bia, Hưng Yên: 34 bia, Bắc Ninh: 62 bia, Bắc Giang: 34 bia, Hà Đông: 31 bia, Hà Nội: 9 bia, Sơn Tây: 19 bia, Phúc Yên: 21 bia, Phúc Thọ: 3 bia, Vĩnh Yên: 12 bia, Thái Nguyên: 5 bia, Nam Định: 6 bia, Hà Nam: 4 bia, Ninh Bình: 3 bia, Thái Bình: 2 bia, Quảng Yên: 2 bia, Lạng Sơn: 1 bia, Thanh Hóa: 3 bia và Nghệ An: 1 bia” (Nguồn: https://www.phatan.org/a3844/bia-da-chuongdong-thoi-tay-son).
2 Tác giả Lê Văn Cường trong Luận văn Thạc sĩ Hán Nôm “Tìm hiểu văn bia hậu thời Tây Sơn” (Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009) cho biết tác giả đã khảo sát và thống kê được 359 văn bia thời Tây Sơn, trong đó có 251 văn bia (với 460 mặt bia) mang nội dung bia Hậu. (Nguồn: https://daophuongthaoblog.wordpress.com/2017/05/29/ tim-hieu-van-bia-hau-thoi-tay-son/).
3 Xin xem: Võ Vinh Quang, “Văn bia triều Tây Sơn quý giá trên đất Huế: bài minh văn trên mộ Vũ Huân tướng quân Lê Viết Sinh”, Tạp chí Sông Hương số 388 (tháng 06.2021), tr.77-83. Link online: http://tapchisonghuong. com.vn/tin-tuc/p2/c15/n30493/Van-bia-trieu-Tay-Son-quy-gia-tren-dat-Hue-Bai-minh-van-tren-mo-Vu-huantuong-quan-Le-Viet-Sinh.html.
4 Vừa rồi, tác giả Lê Minh Khiêm công bố bài viết “Về tấm bia mộ tổ họ Lê ở làng Nguyệt Biều” trên Tạp chí Nghiên cứu & Phát triển, Huế, số 3 (191). 2024, tr.3 - 10, để phản biện bài viết của chúng tôi trên Tạp chí Sông Hương. Qua đó, tác giả cho rằng văn bia mộ ngài Lê Viết Sinh là văn bia mới lập và chúng tôi đã sai lầm trong việc xác định đấy là văn bia triều Tây Sơn.
5 Trịnh Cao Nguyên, “Kỳ lạ một khu lăng mộ cổ vẹn nguyên giữa vùng đất lửa”, báo Quảng Trị online, đăng ngày 04 tháng 11 năm 2012. Link: https://baoquangtri.vn/ky-la-mot-khu-lang-mo-co-ven-nguyen-giua-vung-dat-lua-62070.htm.
6 Giảo nhược 較若: rõ ràng, nhất quán. Chữ này xuất xứ từ sách Tiền Hán Kỷ 前漢紀, quyển 5 , Huệ Đế kỷ 惠帝紀: “Tiêu Hà vi pháp, giảo nhược hoạch nhất, Tào Tham đại chi, thủ nhi vật thất” 蕭何為法,較若畫一,曹參代之,守而勿失 (Tiêu Hà [Thừa Tướng nhà Hán Cao tổ Lưu Bang] lập ra phép tắc, rõ ràng nhất quán. Tào Tham thay thế [chức Thừa Tướng của Tiêu Hà năm 193 TCN, vào đời Hán Huệ Đế], giữ gìn phép tắc đó chẳng mất đi).
7 Thích thích vu tâm 戚戚于心:  trong lòng nôn nao, xáo động; tức chỉ cảm giác luôn lo nghĩ đắn đo về một điều gì đó. Chữ “Thích thích” 戚戚 vốn có nhiều trường nghĩa, song ở ngữ cảnh của bài này thì “thích thích” 戚戚 thể hiện ý nghĩa tâm hồn, tấm lòng của người con luôn xao động, nhớ nghĩ đắn đo. Sách Mạnh Tử  孟子, mục Lương Huệ Vương Thượng 梁惠王上 có câu: “Phu Tử ngôn chi, ư ngã tâm hữu thích thích yên” 夫子言之,於我心有戚戚焉 (Thầy nói về điều đó khiến cho lòng tôi luôn lo nghĩ vậy thay).
8 Nhật trưng nguyệt mại 日征月邁  (cũng viết: Nhật trưng nguyệt mại日徵月邁): Ngày qua đêm tới, nghĩa là thời gian cứ tuần tự trôi qua, hết ngày đến đêm, hết đêm tới ngày. Đây là điển tích lẩy ý từ sách Kinh Thi 詩經, thiên Tiểu Nhã 小雅, chương Tiểu Uyển 小宛: “ngã nhật tư mại, nhi nguyệt tư trưng”  我日斯邁,而月斯徵 (ngày của ta trôi qua, rồi đến đêm tiếp tục trôi qua. Theo đó, Trịnh Huyền鄭玄 chú giải đoạn này của Kinh Thi rằng: “Mại, trưng, giai hành dã” 邁、徵、皆行也 (mại 邁 và trưng 徵 đều chỉ thời gian trôi đi vậy).
9 Vũ hám phong chàng雨憾風撞: Mưa xối gió lay (chỉ sự tác động, lay động rất mạnh của thiên nhiên, của thời tiết đến sự vật).
10 Phấn thư do ức cựu minh tinh粉書猶憶舊銘旌: Chiếu thư [của vua] ban ra, ngõ hầu còn nhớ đến tấm minh tinh (Phấn thư 粉書: viết tắt của chữ “kim phấn chiếu thư” 金粉詔書, nghĩa là bức Chiếu thư ban phong đẹp như phấn ngọc; Minh tinh 銘旌: cờ nêu, tức tấm vải lụa dài màu đỏ, dùng phấn trắng viết tên tuổi, chức vụ của quan chức, treo lên cái giá hay một cái cần dài, dùng đều nêu dẫn đi trước linh cữu trong lúc đưa tang. Lúc hạ huyệt thì đem tấm lụa ấy phủ lên mặt cữu). Ở ngữ cảnh này, “minh tinh” dùng để phiếm chỉ người đã khuất.
Câu “Phấn thư do ức cựu minh tinh” 粉書猶憶舊銘旌 (Chiếu thư ban ra, ngõ hầu để luyến nhớ người đã khuất) và câu dưới “Hoàng nhưỡng khánh triêm tân vũ lộ”  黃壤慶霑新雨露 (Người dưới suối vàng được may mắn tắm táp nguồn ân trạch tươi mới) là hai câu thơ được lẩy ý (mượn và thêm thắt chữ nghĩa, ý tứ) từ hai câu thơ ở bài thơ Thất ngôn bát cú Đường luật: Trì Châu Lý Sứ quân một hậu thập nhất nhật, Xử Châu tân mệnh thủy đáo, hậu kiến quy kỹ cảm nhi thành thi 池州李使君沒後十一日處州新命始到後見歸妓感而成詩 của thi nhân Đỗ Mục 杜牧 (803-852) đời Vãn Đường. Cụ thể, bài thơ rằng: “Tấn thân vân mệnh chiếu sơ hành, tài thị cô hồn thọ khí thành. Hoàng nhưỡng bất tri tân vũ lộ. Phấn thư không hoán cựu minh tinh. Cự khanh khốc xứ vân không đoạn, a vụ quy lai nguyệt bất minh. Đa thiểu tứ niên di ái sự, hương lư sinh tử lý vi danh”   縉雲新命詔初行,才是孤魂壽器成。 黃壤不知新雨露,粉書空換舊銘旌。 巨卿哭處雲空斷,阿騖歸來月正明。 多少四年遺愛事,鄉閭生子李為名.
11 Hoàng nhưỡng khánh triêm tân vũ lộ黃壤慶霑新雨露 : Người dưới suối vàng được may mắn tắm táp nguồn ân trạch tươi mới. Đây là câu lẩy ý từ bài thơ của thi nhân Đỗ Mục (đã chú giải ở trên). Hoàng nhưỡng 黃壤 tức hoàng tuyền黃泉, nghĩa là suối vàng (cõi âm của người đã khuất).
12 Tú chung秀鍾: viết tắt của thành ngữ “chung linh dục tú” 鍾靈毓秀 (hay cũng viết “dục tú chung linh” 毓秀鍾靈) nghĩa là nơi hội tụ linh khí của trời đất, sản sinh ra và nuôi dưỡng bậc hiền tài. Chữ này xuất xứ từ bài Mã Thối sơn Mao đình ký《馬退山茅亭記》 của Liễu Tông Nguyên 柳宗元 đời Đường:  “Cái thiên chung tú ư thị, bất hạn ư hà duệ dã” 「蓋天鐘秀於是,不限於遐裔也 (ấy nên trời hội tụ linh khí, nuôi dưỡng bậc hiền tài như thế, chẳng giới hạn bởi dòng dõi nào xa xôi vậy). Ở đây, “Tú chung Động Hải” 秀鍾洞海 mang hàm ý là vùng Động Hải (Đồng Hới) là nơi hội tụ khí thiêng, nuôi dưỡng hiền tài. Tức có lẽ cũng dùng để phiếm chỉ họ Phạm Quang này có gốc gác từ Động Hải (Đồng Hới), bởi câu sau là “Địa cư Tân Trại” (cư ngụ tại đất Tân Trại).
13 Động Hải洞海: tức Đồng Hới - Quảng Bình ngày nay.
14 Tân Trại新寨: tức Tân Trại Thượng, quê hương của Uy Nghị hầu Phạm Quang Chương (nay là làng Tân Trại, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị).
15 Hữu tử khắc gia有子克家: có con trị nhậm (quản lý) được công việc gia đình. Đây là chữ dùng xuất xứ từ Kinh Dịch易經, quẻ Sơn Thủy Mông蒙卦, hào Cửu Nhị 九二. Lời Kinh rằng: “Cửu Nhị: bao Mông, cát. Nạp phụ, cát. Tử khắc gia”  九二: 包蒙,吉. 納婦吉, 子克家 (Bao dung cho trẻ thơ, tốt! Nạp vợ, tốt! Con trị nhậm được việc nhà.). Bàn về lời trên, “Tượng viết: Tử khắc gia, cương tiếp nhu dã” 象曰: 子克家, 剛接柔也 (Lời Tượng nói rằng: con trị nhậm được việc nhà, dùng tính cứng mà tiếp đãi uyển chuyển với tính mềm vậy).
16 Tòng vương vu mại從王于邁: theo vua mà đi lại, hành tẩu khắp nơi. Đây là chữ dùng lẩy ý từ sách Kinh Thi詩經, thiên Lỗ tụng魯頌, mục Phán Thủy  泮水: “Vô tiểu vô đại, tòng công vu mại” 無小無大、從公于邁 (bề tôi của Lỗ hầu không phân biệt lớn hay nhỏ, đều theo ngài Lỗ hầu (Công) mà đi lại (hành tẩu)). Văn bản trên chỉ thay thế chữ “Công” 公  thành “Vương” 王, dùng để chỉ việc theo hoàng đế Tây Sơn mà hành tẩu, đi lại muôn phương.
17 Đoan bái 端拜: đứng chắp tay nghiêm chỉnh để vái lạy.
18 Cao Bằng quận là quận âm của họ Phạm (theo Bách gia tính百家姓), không phải là xứ hay tỉnh Cao Bằng của Việt Nam hiện nay.
19 Đức đại 德大: đức độ to lớn.
20 Xin xem: Võ Vinh Quang - Đỗ Minh Điền, “Về niên đại và cách dùng từ Việt cố trên bia mộ”, link: https://vovinhquang.wordpress.com/2020/06/29/ve-nien-dai-va-cach-dung-tu-viet-co-tren-bia-mo/
21 Cao Bằng quận là quận âm của họ Phạm (theo Bách gia tính百家姓), không phải là xứ hay tỉnh Cao Bằng của Việt Nam hiện nay.

 

 

Các bài đã đăng