Khảo cổ
Báu vật của làng
15:07 | 24/10/2025

HÀ XUÂN HUỲNH

Quả chuông đồng của làng La Chử và lăng mộ song táng của Đại Tư đồ Võ Văn Dũng, chính thất Lê Thị Vi được PGS.TS. Đỗ Bang nhắc đến trong tham luận “Đặc điểm di tích lịch sử thời Tây Sơn tại Huế và việc phát triển du lịch di sản” đăng trên Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Hướng phát triển du lịch thành phố Huế” do Hội Khoa học Lịch sử, Sở Du lịch, Hiệp hội Du lịch tổ chức vào giữa tháng 4/2025 khiến tôi càng tự hào về quê hương mình, dù những thông tin này được phát hiện, công bố từ lâu; bởi quả chuông đúc vào năm Quang Trung thứ 4 và Đại Tư đồ là con rể của làng.

Báu vật của làng
Chuông đồng ở làng La Chử

Minh văn trên chuông khắc rõ “Hương Trà huyện, La Chử xã, Hội chủ Lê Công Học tín cúng, Điện tiền Thái bảo giá ngự Quận công Võ Văn Dũng, chính thất Lê Thị Vi công đức” (ông Lê Công Học là cha bà Vi). Ngoài quả chuông, ông bà còn dâng cúng làng bộ lư thờ tại chính án đình làng. Qua năm tháng, dân làng luôn ra sức bảo vệ hai báu vật vừa vì giá trị, vừa vì xung quanh chúng và ngôi mộ của người cúng dường có nhiều điều kỳ lạ ngỡ như huyền thoại.

Là người con của đất Bình Định, Võ Văn Dũng theo Nguyễn Huệ, tham gia phong trào khởi nghĩa Tây Sơn, giữ chức Điện Tiền Tướng quân, tước Thái Bảo Giá Ngự Quận Công, được giao lập Tổng hành dinh tại La Chử, án ngữ mặt Bắc, bảo vệ Kinh thành Phú Xuân, rồi trở thành con rể của làng. Ngày 7/11 năm Nhâm Tuất, nhằm ngày 1/12/1802, ông bị xử chém tại cồn Mồ Côi, An Hòa. Dân làng truyền khẩu là thật may mắn, tại pháp trường lúc ấy có người làng - ông Hà Thúc Dư - làm “Quan lưỡng Triều”, theo gia phổ họ Hà Thúc, ông trước theo Tây Sơn, sau được nhà Nguyễn thu dung, cũng có người cho rằng trước ông làm quan cho chúa Nguyễn Phúc Thuần rồi vua Nguyễn, làm ra vẻ giận dữ tên phản tặc, ra lệnh chôn gấp rồi mật báo cho dân làng đưa về chôn tại cồn Lăng Thầy Tu, không đắp mộ, chỉ làm dấu tránh thất lạc. Sau, bà Lê Thị Vi mất, làng đem táng bên cạnh. Năm 1896, không khí thù địch có phần lắng dịu dần, dân làng bầu ông Lê Phú Ân, Tả quân Đô thống chưởng phủ sự trí sĩ, làm Hội thủ, trông coi xây lăng mộ cho vợ chồng Đại Tư đồ. Năm 1963, dân làng lại trùng tu, sửa chữa và dựng bia cho ông bà theo truyền thống: bia trái khắc “Hiển Điện Tiền Thái Bảo Giá Ngự Quận Công Võ Văn chi mộ”, bia phải khắc “Hiển Điện Tiền Thái Bảo Giá Ngự Quận Công Võ chính thất Lê thị chi mộ”, phía dưới hai bia có dòng chữ nhỏ “Quý Mão niên ngũ nguyệt cát nhật 1963” và “La Chử thôn dân đồng phụng lập”. Giữa hai bia có tấm biển xi măng gắn vào tường đề chữ Quốc ngữ “Tô sửa và dựng bia ngày 16/7/1963”, kích thước 40cm x 20cm, nay chữ đã mờ phai, khó đọc.

Bên cạnh những dấu tích trên, tại làng và phụ cận còn nhiều địa điểm in đậm dấu ấn nhà Tây Sơn như Đất Công Dinh - khu vực Tổng hành dinh của tướng quân Võ Văn Dũng - rộng 20 mẫu, nằm sau lưng chùa làng, cách khe nước nhỏ mà dân làng quen gọi là Hà, trước mặt là con hói và đường thiên lý Bắc - Nam thuở nào; như Nền Võ Hội, nằm trên cánh đồng giáp làng Hương Cần gọi là Xứ Võ Hội - nơi luyện quân của ông, nay còn nền đất rộng khoảng 50m2 tựa một võ đài, dù trước rất rộng song quá trình canh tác bà con lấn dần; như Tập Tượng Trường của nữ tướng Bùi Thị Xuân nằm trên địa phận làng An Đô. Khu vực nằm sát núi, rộng độ 20 hecta, làng An Đô gọi là xứ Ông Hồng, bán cho bà Lê Công Thị Nhơn, dân La Chử. Bà Nhơn cúng cho làng và đổi gọi là xứ Hạ Lang. Khi bà Tư Đồ Thái Phó tìm đất làm nơi luyện voi chiến, làng và bà đồng ý cho nữ tướng sử dụng.

Đại Tư đồ Võ Văn Dũng, chính thất Lê Thị Vi, Tư Đồ Thái Phó Bùi Thị Xuân và bà Lê Công Thị Nhơn được dân làng tôn vinh là bậc công đức, bài vị của họ đặt tại chùa làng, hằng năm, làng đều cúng giỗ và gọi là “Kỵ Công Đức”. Nơi gắn liền tên tuổi ông bà là chùa và đình làng, năm 2007 được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.

Lăng mộ song táng của Đại Tư đồ Võ Văn Dũng, chính thất Lê Thị Vi


*

Bước vào chùa, quả chuông treo trên giá gỗ sơn son ghi niên đại “Bảo Đại nhị niên tạo” (tức năm 1927) phía trái (từ trong nhìn ra). Vào ngày tốt tháng 7 năm Tân Hợi, tức tháng 8/1791, “chuông đúc bằng đồng, tương đối mỏng nên trọng lượng khoảng 4 tạ. Chuông cao 1,26m, gồm quai và thân. Quai chuông cao 35cm, đúc hình con bồ lao, hai đầu quay ra hai phía, nối thân lại với nhau ở đoạn uốn cao lên, tạo nên dáng cong của quả chuông. Ở mỗi đầu có chân dang ra hai bên, tất cả bám chặt vào thân chuông. Cả hai con đều há mồm, giương vi, như đang gầm thét, trông dũng mãnh, oai hùng.

Thân chuông cao 91cm. Đầu tròn, miệng loe, chu vi ở bụng chuông đo được 180cm; đường kính 57cm. Đường kính ở miệng 69cm. Chuông đúc dày gần 1cm, nhưng đã bị bắn thủng 12 lỗ nhỏ có đầu đạn súng trường hoặc tiểu liên (đường kính mỗi lỗ khoảng 1cm) và còn có mấy vết do đạn bắn xước qua. Thân chuông được trang trí, chạm khắc khá đẹp. Về phương diện này, thân chuông có thể chia ra làm hai phần chính, giới hạn bằng một vành đai ở giữa có đúc nổi làm vú chuông.

Phần trên cao 63cm. Nhìn vòng quanh đoạn trên cùng, ta thấy chạm trổ hình bát bửu: cái quạt, pho sách, bình hoa, bầu rượu, gương soi, lược chải, tù và, lá hương mộc. Từng cặp trong 8 hình ấy nằm hai bên và phía trên của một trong bốn chữ đại tự viết tên tứ thời (bốn mùa): xuân, hạ, thu, đông. Vào mùa nào thì dùng thứ ấy, mùa xuân: gương và lược, mùa hạ: cái quạt và pho sách, mùa thu: bình hoa và bầu rượu, mùa đông: lá hương mộc và cái tù và. Chung quanh đoạn giữa, chiếm phần lớn thân chuông, là nơi dùng để khắc thơ văn. Chung quanh đoạn dưới đó là hình bát bộ kim cang mang khí giới (chùy và đao) được chạm nổi.

Phần đuôi cao 28cm. Nhìn quanh phần này, chúng ta thấy có hình ảnh tứ linh (bốn con vật thiêng liêng ngày xưa): long, lân, quy, phụng.

Nằm tiếp cận giữ hai phần ấy là vành đai đúc nổi, hai bên trang trí hai đường hồi văn chạy song song với nhau nằm giữa những đường viền khác. Vành đai này bị gián đoạn ở 4 chỗ cách đều nhau bởi một cái gù hình tròn nhô cao lên dùng để đánh vồ vào chuông. Quanh mỗi vú chuông được trang trí hai vòng tròn và những chấm nổi nằm liên tiếp nhau như những chuỗi hạt ở giữa hai vòng tròn đó. Đường kính của vòng tròn ngoài cùng là 10cm. Ở phía dưới cùng tiếp giáp với phần miệng chuông là một vòng trang trí hoa văn.” (Phan Thuận An - “Tìm thấy một số di tích thời Tây Sơn ở Bình Trị Thiên” in trong “Tây Sơn - Thuận Hóa, những dấu ấn lịch sử”, Bảo tàng Tổng hợp Bình Trị Thiên xuất bản, Huế 1986, tr. 30-31).

Trải qua binh đao khói lửa, dân làng nhiều lần phải thả chuông xuống giếng tránh đạn bom, an toàn mới trục vớt lên. Đó là chưa kể tương truyền tiếng chuông ngân vang đến tận Đại Nội làm nhà vua tỉnh giấc nên bắt làng đục ba lỗ trên đỉnh rồi trám chì lại nhằm giảm âm vọng! Đến nay, nhiều người trong làng còn nhắc sự kiện xảy ra năm 1988, một phái đoàn từ tỉnh Nghĩa Bình ra liên hệ mượn chuông đem vào Quy Nhơn triển lãm nhân kỷ niệm 200 năm ngày Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế (22/12/1788). Một số chức sắc đồng ý. Lúc đoàn ra chùa, chuẩn bị hương hoa để hạ chuông, rất đông dân làng kéo tới phản đối. Lý do dân làng không đồng thuận chỉ đơn giản sợ mất, như lời của một người la lối: xưa, ông Lý Cái cho người ta mượn trống đã mất rồi, nay cho mượn chuông nữa là xong! Những người trên dưới 90 tuổi ở làng hiện nay cũng chỉ nghe nói chứ cho mượn trống vào năm nào và cho ai mượn thì chịu, nói gì đến chuyện thấy, chỉ đồn rằng một mặt trống phải bịt một bộ da trâu đủ biết trống to cỡ nào!

Bộ lư bị mất khi nào chẳng rõ, có khả năng vào những năm 1950 - 1951, giặc Pháp bị dân quân du kích đánh bật khỏi làng đã đốt đình làng để trả thù. Lư hình khối chữ nhật, 4 chân đúc hình mặt sư tử, quai đúc hình quai vạc, cổ lư phía trước khắc “La Chử xã”, phía sau khắc chữ “Chính”, thờ tại chính án của đình. Năm 1991, một người dưới phố (ở đường Phan Chu Trinh) nhắn tin muốn trả cho làng bộ lư. Các cụ bô lão tức tốc thuê xe lam, kết đèn hoa, thiết bàn thờ, khăn đóng áo dài về chuộc lại. Gia chủ cho hay mua bộ lư tại chợ Trời, lúc đó nằm sát chợ Đông Ba đến sát chân cầu Trường Tiền; làm ăn sa sút, gia cảnh bất ổn nên mới thỉnh tượng Phật về thờ và mời một vị Thượng tọa đến chứng minh làm lễ an vị. Nhà sư thấy chữ La Chử xã trên lư bèn khuyên gia chủ trả lại cho làng vì tư gia không thờ được. Thế là “châu về Hợp Phố” sau 40 năm tròn, bộ lư lại nằm đúng chỗ trong ngôi đình mà nhờ sự giúp đỡ của người con rể vào năm 1788, làng trùng tu đình, đã cho người ra tận Nghệ Tĩnh mua gỗ, để tiếng thơm cho ngôi đình qua câu cửa miệng dân gian “Thình thình như cột đình La Chử”.

Hơn 200 năm, tiếng chuông triêu mộ của chùa làng đều đặn vang lên, thức tỉnh dân làng bước vào ngày mới với bao nỗi niềm thường nhật rồi an lạc trở về chính mình, lục tìm trong ký ức những bóng hình đã qua. Hy vọng ý tưởng phát triển du lịch đặt ra tại Hội thảo sớm trở thành hiện thực, La Chử quê tôi sẽ là điểm đến hấp dẫn, thu hút du khách trong hành trình khám phá di sản thời Tây Sơn.

H.X.H
(TCSH58SDB/09-2025)

 

 

Các bài đã đăng