Tôi đồ rằng khúc thơ Từ đó tôi dành niềm tin / Cho các nhà thơ không bao giờ lớn tiếng là một tuyên ngôn của thi sĩ nổi tiếng Lê Văn Ngăn. Bởi cả trong chuyện “khai báo” trích ngang cuộc đời - tác phẩm trong các tuyển tập, ông cũng chỉ ngắn gọn “có những người bạn thân ở nhiều nơi trong nước”, càng làm cho người yêu thơ ông thêm “sương khói” với một đời thi sĩ nhiều giai thoại. Một nhà thơ “công thần” từ phong trào học sinh - sinh viên yêu nước trước 1975 tại Đà Lạt, bút lực luôn dồi dào nhưng có lẽ chỉ in “công khai” duy nhất tập thơ riêng ở tuổi 65. Sao thế nhỉ? Quy Nhơn ngày tháng nào không rõ của năm 2006, một người bạn nói: tí nữa Lê Văn Ngăn tới. Tôi khấp khởi hồi hộp trước một tên tuổi đã biết “nhàu nát” qua sách báo và thơ ông đã góp “gia tài” chúng tôi một thời sinh viên khốn khó. Lê Văn Ngăn là một tiếng thơ vang dội, lắng đọng trong phong trào học sinh - sinh viên yêu nước trong các đô thị miền Nam trước 1975 và từ bấy đến giờ vẫn “tả xung hữu đột” tinh khôi trên văn đàn…
Rẽ chiếc xe đạp cà tàng vào quán nước trước bến xe Bình Định là người đàn ông với nước da nâu, gầy rắn rỏi, nét mặt nửa như hớn hở nửa như trầm tư. Nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng (Chủ tịch Hội VHNT Bình Định) nói: "Thi sĩ Lê Dzăn Ngăn đó!”. Hồn hậu một cách dễ chịu, nhà thơ Lê Văn Ngăn nhẹ nhàng cười chào, ngồi xuống và nâng ly, xoá khoảng cách tuổi tác ngay từ đầu. Thi sĩ có giọng thơ cực kỳ hiện đại lại mộc mạc như một lão nông vừa dưới quê lên… Tôi vẫn còn nhớ như in cái cảm giác tươi mới trong những ngày sinh viên Đà Lạt khi đọc thơ Lê Văn Ngăn. Ấy là những bài thơ ông “gởi cho đông vui” (như sau này ông tâm sự) dự thi thơ Tuần báo Văn Nghệ 1990-1991 và sau đó đoạt giải nhì. Đây là một trong những giải thưởng hiếm hoi của ông “bị lộ diện”, bởi ông không thuộc tạng thích đem tác phẩm đi thi thố, kể cả in tập; trong lúc, thơ ông thuộc loại nổi tiếng nhiều bạn đọc, nhiều người hối thúc sẵn sàng bỏ tiền in; mãi đến bước sang tuổi 65, ông mới chịu cho in tập “Viết dưới bóng quê nhà” với 46 bài trong hàng ngàn thi phẩm của mình.
“Già” Ngăn tặc lưỡi: “Thơ của thi sĩ thuộc về người đọc, thơ hay thơ dở chỉ cần “lộ” ra một tí là thiên hạ biết ngay! Chỉ cần in báo, in mấy tuyển chung với anh em… kiếm tí nhuận bút cà phê là đủ rồi…”. Dẫu đã có ngàn vần thơ riết róng đến quyết liệt nhưng bản tính lặng lẽ vẫn là dấu ấn lớn nhất của đời ông, khiêm nhường cả trong lúc… say! Giọng Huế rặt ri dẫu gần trọn cuộc đời sống xa quê. Những dòng thơ xuôi theo tâm tưởng, không một chút vần vè nhưng đầy âm nhạc. Cách đây gần hai mươi năm, tôi thuộc làu bài “Quà tặng” dẫu không phải là tác phẩm vô giải năm đó: Anh gởi tặng em tiếng chuông đồng hồ điểm / để ở hai nơi cách xa nhau, chúng ta cùng thức dậy giữa đêm khuya / thầm hỏi về những tháng năm đã sống / Hạnh phúc thường đến kèm theo những nỗi sợ hãi… Còn một trong hai bài được trao giải Văn Nghệ là “Xa Đà Lạt” vẫn khiến anh day dứt: “Đà Lạt, nơi chứa đựng nhiều kỷ niệm sâu sắc, giờ nghĩ lại xấu hổ vì những điều mình nói trong thơ cho thấy mình chưa hiểu bao nhiêu về con người của miền đất ấy…”. Thế là ông dứt khoát không đưa vào tập thơ mới in.
Xuề xoà trong cuộc sống nhưng quá khắt khe trong sáng tạo; nặng lòng với người quen thân và những vùng đất đã qua đã làm nên một miền tương tư trong những việc làm, những cuộc hàn huyên của ông. Và rồi ông lao động chữ… Nói như ông Dương Tường, người ta không thể trở thành nhà thơ - hoặc anh là thi sĩ, hoặc anh chẳng bao giờ là thi sĩ. Lê Văn Ngăn thuộc vào trường hợp chẳng bao giờ cố làm nhà thơ, bởi trong máu và cả đời ông là thi sĩ… Anh em văn nghệ miền Trung vẫn lưu truyền nhiều giai thoại về tính đãng trí của Lê Văn Ngăn. Là người “áp giải” Lê Văn Ngăn nhiều năm liền, nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng nhận… diện: thi sĩ họ Lê là một người hạnh phúc nếu hiểu theo cái nghĩa một nhà thơ mà khi nhắc tên, anh em thường kèm theo đó hàng lô hàng lốc những giai thoại. Anh mây trời gió nước đến nỗi khi đi nhậu khuya về gọi cửa, anh quên mất tên bà xã mà gọi đích danh bà hàng xóm. Anh đi với tôi, gặp nhà thơ X, anh mừng rỡ luống cuống bảo: “Trời ơi, lâu quá, giới thiệu với ông đây là nhà thơ Y” là chuyện hết sức bình thường. Đến nỗi khi gặp nhà thơ A, anh vui vẻ giới thiệu với tôi là A rồi, tôi chơi ngẳng thì thào vào tai anh: “Đó đâu phải anh A”. Lập tức anh bắt tay lại anh A và: “Xin lỗi B nhé, hồi nãy mình quên nên giới thiệu là A”.
Anh nhầm người ta vô hồi kỳ trận. Nhưng hình như có “luật nhân quả”, người thân cũng nhầm anh trở lại. Hôm anh về Huế, một người bạn nha sĩ thương, nhìn cảnh anh “hàng tiền đạo bị thẻ đỏ” tức “lợi một bên mà răng một bên”, tài trợ cho anh bộ răng giả xịn, anh đáp tàu về định khoe với vợ trước tiên sau đó mới đến khoe với anh em cơ quan. Vợ anh ra mở cửa, nhìn miệng mồm anh mới tân trang, tưởng vị khách lạ nào, buột miệng: “Anh Ngăn về Huế chưa vô, có gì hôm khác anh lại!”. Còn chuyện anh mê ngồi quán so tài “xe-pháo-mã”, sợ mất xe đạp nên chạy ra khóa nhầm xe người khác là chuyện… thường. Có câu chuyện đã thành giai thoại mà chính ông hay kể như là cách tự trào về nghiệp văn; ấy là một hôm mẹ ông nghe đài đọc thơ “thằng con”, bà nhẹ nhàng nói: “Không còn chuyện gì đàng hoàng để làm hay sao mà đi làm thơ, con?!”. Đặc biệt, ông còn “sáng chế” ra bài thuốc trị bệnh dạ dày của mình bằng cách… uống bia thì khó mà áp dụng theo!
Trò chuyện nhiều lần, Lê Văn Ngăn mới chịu “khai”: năm học đệ thất (lớp 6 bây giờ) ông từng có thơ in trên Báo Phụ nữ Thứ bảy - Sài Gòn. 18 tuổi, ông viết bài “Người phu xe”: Cha đã lăn cho con những vòng xe / mồ hôi chảy xuống lấp lánh mặt trời / đọ sức cùng thiên nhiên/ (…) Sao mà những nếp nhăn / sao mà khuôn mặt héo…; bài thơ này làm Thái Ngọc San và nhiều bạn bè khác xúc động khôn xiết! Thời sinh viên (khóa 3,1964-1966) ở trường Sư phạm Quy Nhơn anh đã in ronéo tập thơ có tựa “Trên đồng bằng”. Năm 1972 Đài Tiếng nói Việt Nam và Báo Văn Nghệ phát đi bài thơ “Sóng vẫn đập vào eo biển”, tờ Thống Nhất đăng tải bài “Đất của những người bất phục” khiến tên tuổi Lê Văn Ngăn được kẻ sĩ Bắc Hà chia sẻ như một đồng chí trên cùng một chiến tuyến. So với nhiều bạn bè tài hoa cùng thế hệ, tên tuổi Lê Văn Ngăn lặng lẽ hơn rất nhiều, nhưng cái lặng lẽ đổi mới để thành một giọng điệu lãng mạn đến tận cùng, hiện thực đến tận đáy, làm sắt se cả thi đàn hiện đại. Ngoại trừ một số bài thơ thuở đôi mươi và ứng khẩu “trà dư tửu hậu”, thơ Lê Văn Ngăn như nhất một giọng văn-xuôi-không-vần-đầy-nhịp-điệu của một bản-năng-thi-sĩ luôn tự biết làm mới mình qua từng con chữ…
Nhà thơ Nguyễn Tường Văn, người sát cánh với Lê Văn Ngăn trong phong trào học sinh - sinh viên yêu nước tại Đà Lạt, nói: "Lê Văn Ngăn thực sự là một “huynh trưởng” trong những ngày đấu tranh cam go ở Đà Lạt. Những bài thơ rực lửa của anh trên các tờ Đối diện, Trình bày… đã góp phần kích thích tinh thần yêu nước, sẵn sàng xả thân vì dân tộc ngay trong lòng đô thị luôn bị bố ráp của Mỹ -Ngụy”. Nguyễn Tường Văn còn cho hay: hồi những năm 1970-1973 ở Đà Lạt, có lúc buộc phải khoác áo lính ngụy “quèn”, Lê thi sĩ luôn mặc kiểu xộc xệch “lộn trên lộn dưới”; ví như lấy cà vạt làm dây nịt… thò ra lòng thòng, trông rất “gai”…
Trong đời gặp gỡ và cảm nhận các nhà thơ, tôi thấy Lê Văn Ngăn là một người hiếm hoi sống như 100% với những gì mình viết và ngược lại. Nói như nhà thơ Ngô Thế Oanh, “Thơ Lê Văn Ngăn thấm vào ta những cảm xúc bao giờ cũng chân thực, chân thành và với một thứ nhạc điệu, nhịp điệu nội tại, nội tâm một nét rất riêng trong nghệ thuật thơ ca mà không dễ nhà thơ nào cũng có được. Một bản lĩnh thơ rất hiện đại nhưng xa được những lý thuyết ồn ào. Thơ Lê Văn Ngăn chính là con người, cuộc đời anh”. Thơ Lê Văn Ngăn găm sâu vào lịch sử văn học là bởi ông là “nhà thơ không bao giờ lớn tiếng” chăng? Đ.Đ.T
(nguồn: TCSH số 237 - 11 - 2008)
|