Tuy nhiên, sử sách chính thống của triều Nguyễn cũng như một số tư liệu khác từ trước đến nay đều không cho phép nói như thế. Vậy tác giả của bài thơ ấy là ai? Chúng tôi xin nêu vấn đề này ra để tìm hiểu và mong các nhà nghiên cứu văn học sử tìm ra được tác giả đích thực của bài thơ:
Khóc Bằng phi
Ới Thị Bằng ơi đã mất rồi! Ới tình, ới nghĩa, ới duyên ôi! Mưa hè, nắng chái, oanh ăn nói, Sớm ngõ, trưa sân, liễu đứng ngồi. Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng, Xếp tàn y lại, để dành hơi. Mối tình muốn dứt càng thêm bận, Mãi mãi theo hoài cứ chẳng thôi. Đây là một bài thơ Nôm có giá trị văn chương rất cao, kể cả về hình thức lẫn nội dung. Lãng mạn nhất là ở hai câu luận (câu 5-6) với ý tứ cực kỳ mới mẻ và táo bạo: vì quá nhớ thương nên đập vỡ tấm gương mà nàng đã từng soi để mong thấy lại được hình ảnh của nàng trong đó, và xếp chiếc áo cũ mà nàng đã từng mặc, đem cất kỹ để thỉnh thoảng giở ra để thưởng thức lại dư hương. Theo sách " phong giải trào" của Trần Danh Án, Ngô Đình Thái và Trần Doãn Giác (thế kỷ XVIII-XIX) được khắc in vào năm 1910(1) thì hai câu thơ này đã lặp lại phần lớn các từ ngữ ở hai câu trong một bài thơ của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) "Đập mảnh gương ra tìm lấy bóng, Xếp manh áo lại để dành hơi"(2). Trong 14 chữ ấy, tác giả sau chỉ thay thế 4 chữ của tác giả trước: đổi "mảnh gương" ra "cổ kính" và thay "manh áo" thành "tàn y". Văn phong trở nên bay bướm và hoa mỹ hơn.
Sở dĩ trong hơn 70 năm qua, người ta thường gắn bài thơ "Khóc Bằng phi" với vua Dực Tông Anh Hoàng đế (tức là vua Tự Đức) có lẽ vì các lý do sau: - Phần lớn lời thơ, cũng như nhan đề của tác phẩm, hiểu theo nghĩa thông thường và nhận thức theo cảm tính, rõ ràng là của một ông vua viết cho một nàng cung phi vừa qua đời. - Vua Tự Đức là một ông vua giỏi về thơ văn, từng biên soạn khá nhiều tập sách bằng chữ Hán và chữ Nôm, như "Ngự chế thi văn tập", "Ngự chế Việt sử Tổng vịnh tập", "Luận ngữ diễn ca", "Tự học giải nghĩa ca", và cũng đã làm hơn 100 bài thơ Nôm. - Lúc sinh thời, trong nội cung của vị vua này, từng có đến hơn 100 bà phi tần. Dù không sinh được người con nào để nối ngôi (có lẽ vì bệnh đậu mùa biến chứng), nhưng mãi đến khi nhà vua thăng hà vào năm 1883, vẫn còn lại 103 bà vợ (femmes)(3).
Có lẽ vì nghĩ như thế, cho nên, trong bộ "Từ điển văn học" gồm hai tập xuất bản tại Hà Nội vào hai năm 1983 và 1984, khi giới thiệu về "Nguyễn Hồng Nhậm" (tức là vua Tự Đức), tác giả Phạm Tú Châu đã kết luận rằng: "Về phương diện văn học, dù sao Tự Đức vẫn được coi là một tác gia có khối lượng sáng tác đáng kể ở thế kỷ XIX. Thơ văn ông thể hiện bước nối tiếp và phát triển về nhiều thể loại như thơ, phú, ca, từ, truyện, lý luận văn học... Riêng về thơ tình, ông để lại bài thơ Nôm "Khóc Bằng phi" nổi tiếng"(4) Nói rằng "Khóc Bằng phi" là bài "thơ tình" của vua Tự Đức, được xem như một sự khẳng định, nhưng, theo thiển ý, đây là một sự khẳng định thiếu căn cứ khoa học trong nghiên cứu văn học.
Vậy do đâu mà người ta đã đi đến nhận định thiếu sức thuyết phục như thế? Thiết tưởng chúng ta cần truy nguyên bài thơ tình lãng mạn ấy đã xuất hiện trên sách báo chữ quốc ngữ từ bao giờ và do ai công bố. Khi tra cứu các tài liệu đề cập đến và tuyển đăng thơ Nôm thế kỷ XIX, chúng tôi thấy quyển sách đầu tiên có đăng bài thơ "Khóc Bằng phi" dường như là "Chương Dân thi thoại" của Phan Khôi (1887-1959), được xuất bản lần đầu tại Huế vào năm 1936. Trong sách ấy, ông chỉ viết một câu rất ngắn gọn và đơn sơ rằng đây là "thơ ngự chế của đức Dực Tôn" (tức là vua Tự Đức), chứ không ghi xuất xứ bài thơ đã được lấy ra từ tư liệu cụ thể nào. Trong khi đó thì ở "Lời đầu sách", ông cho biết rằng 43 "tắc" (tức là đoạn) trong quyển sách đầu tiên này của ông là do ông tập hợp và chọn lọc từ các bài mà ông đã từng đăng trên các báo chí đương thời, chứ ông không nói là lấy ra từ một nguồn tư liệu cụ thể và đáng tin cậy nào cả. Và trong phần "Tiểu dẫn" ở đầu sách, ông còn thổ lộ rằng ông "chép ra quyển Thi thoại nầy để giúp vui cho các ngài [tức là độc giả] khi tửu hậu trà tiền"(5).
Thế nhưng 3 năm sau, tức là năm 1939, khi biên soạn quyển "Văn học Việt Nam", nhà giáo Dương Quảng Hàm (1898-1946) liền đưa bài thơ ấy vào sách giáo khoa của mình một cách chính thức và chú thích một cách vô tư rằng "Thị Bằng: tên một bà phi của vua Tự Đức"(6). Chúng ta cần nhớ lại rằng trước đó 10 năm, tức là năm 1929, trong quyển "Việt Nam thi văn hợp tuyển", ông chỉ chọn bài thơ Nôm tiêu biểu nhất của vua Tự Đức là bài "Ngẫu cảm" để in vào sách của mình mà thôi. Nội dung bài thơ này như sau: Sự đời ngẫm nghĩ, nghĩ mà ghê! Sống gửi, rồi ra lại thác về. Khôn dại cùng chung ba thước đất, Giàu sang chưa chín một nồi kê. Tranh giành trước mắt mây tan tác, Đày đọa sau thân núi nặng nề. Muốn đến hỏi tiên, tiên chẳng bảo, Gượng làm chút nữa để mà nghe(7).
Cũng cần biết thêm rằng khi biên soạn quyển "Việt Nam văn học sử yếu" vào năm 1914 tại Hà Nội, nhà giáo Dương Quảng Hàm đã dành ra một chương để đề cập đến "Các nhà viết văn Nôm về thế kỷ XIX", trong đó, ông đã phân loại thơ văn chữ Nôm của vua Tự Đức thuộc về khuynh hướng đạo lý, chứ không phải khuynh hướng tình cảm(8). Vả lại, trước đó 13 năm, trên Thần kinh Tạp chí (xuất bản tại Huế), số 10, tháng 5-1928, ở mục "Văn uyển" có dành ra một trang để đăng 3 bài thơ Nôm mà Tòa soạn của Tạp chí cho là tiêu biểu nhất trong hơn 100 bài thơ Nôm của vua Tự Đức. Nhưng 3 bài đó mang nhan đề là "Lên Khiêm cung", "Khuyên học" và "Mừng đặng mưa", chứ không thấy có bài "Khóc Bằng phi".
Vì 3 bài thơ này đã được đăng tải cách đây 80 năm (1928-2008), rất khó tìm, và cần so sánh văn phong cũng như cách dùng từ ngữ giữa chúng với bài "Khóc Bằng phi", cho nên, chúng tôi xin dẫn lại dưới đây để làm tư liệu và để đối chiếu: Lên Khiêm cung Một phen một mới gọi tân cung, Ước đã mười năm hỡi mối mong. Sẵn thế núi non đà tạo lập, Thêm hình điện các lại hào hùng. Khắp đường cây rập cành xuân mát, Vào cửa mình quên nắng hạ nồng. Khuyên kẻ theo đòi đừng sợ nhọc, Đuôi rồng vin đặng lọ râu rồng. Khuyên học Tánh linh người vốn khác muôn loài, Chẳng học sao mà đặng gọi người. Xây mặt vào tường nào biết chuyện, Cong lưng như nộm khéo trê đời. Nên kim tìm khó siêng mài sắc, Kiếm nẽo cho thông phải phát gai. Sanh biết gắng hay rồi cũng một, Thánh hiền cũng chúng khác gì ai. Mừng đặng mưa Tình cơ may gặp trận mưa rào, Thiên hạ vui mừng hẳn biết bao. Thần núi ứng mây thêm đậm đậm, Ơn trời rưới nước khắp ào ào. Tràn đồng hột ngọc nhờ no đủ, Một nhọt cân vàng khó ước ao. Hai tháng tưởng cầu nay mới đặng, Rằng thanh minh võ tạc non cao(10).
Về mặt hình thức, chúng ta thấy ở cả 3 bài thơ đều có dùng một số từ ngữ thường gặp trong lời thơ từ thế kỷ XIX trở về trước, chẳng hạn như: đà, lọ, trê đời..., và đặc biệt nhất là cả 3 bài đều có dùng từ "đặng": - Đuôi rồng vin đặng lọ râu rồng (Bài Lên Khiêm cung). - Chẳng học sao mà đặng gọi người (Bài Khuyên học). - Hai tháng tưởng cầu nay mới đặng (Bài Mừng đặng mưa). Nếu 3 bài thơ này có những điểm giống nhau rõ rệt thì xem ra lại có nhiều điểm khác biệt so với bài "Khóc Bằng phi". Trong khi 3 bài ấy mang lời lẽ chất phác và thiếu điêu luyện, văn hoa, bay bướm thì lời thơ bài này lại hầu như được gọt giũa từng câu từng chữ. Nhưng, chính vua Tự Đức đã từng nói: "Đại để, thơ của Trẫm phần nhiều là nhân cảm hứng phát ra, không có phù phiếm để cầu đẽo gọt" (Đại để, dư thi đa nhân cảm hứng nhi phát, bổn phi phiếm nhiên cầu công) (10), hoặc: "Làm thi văn tả ngay những điều do tâm can nghĩ ra, không gọt rũa"(11).
Có người cho rằng 4 từ "mưa hè, nắng chái, sớm ngõ, trưa sân" ở 2 câu thực trong bài "Khóc Bằng phi" đều mang nặng tính dân gian, chứ chẳng có vẻ gì là cung đình và vương giả. Hơn nữa, lúc sinh thời, học giả Bửu Kế (1914-1989) có cho biết rằng vào năm 1945, khi đang làm công tác văn khố tại Văn Thư Viện ở Huế, ông đã may mắn đọc được tập thơ Nôm của vua Tự Đức vốn được "trân tàng tại Nội Các" trong Đại Nội chuyển ra cùng với một số tài liệu quí báu khác. Đọc hơn 100 bài thơ Nôm ở tập thơ viết tay ấy, học giả Bửu Kế đã nhận ra hai điều. Một là, ông đọc rất kỹ nhưng vẫn không thấy bài "Khóc Bằng phi". Hai là, những bài thơ Nôm trong đó (cũng như nhiều bài thơ chữ Hán của vua Tự Đức) đều chỉ nói đến đạo lý, lịch sử và tả cảnh, chứ không hề có bài nào mang nội dung tình cảm lãng mạn ướt át đối với tình yêu đàn bà con gái. Nhưng rất tiếc là "Tập thơ này đã bị mất trong trận chiến tranh Việt Pháp"(12) diễn ra ở Huế vào đầu tháng 2-1947. Loại cứ liệu quan trọng và có sức thuyết phục hơn hết cần đưa ra để phủ nhận tác giả ấy của bài thơ là chính tư liệu do triều Nguyễn để lại. Đọc những bộ chính sử của triều đại này nói chung, của thời Tự Đức nói riêng, như "Đại Nam thực lục", "Đại Nam liệt truyện", chúng ta không hề thấy có bà hoàng hậu hoặc phi tần nào mang danh hiệu là Bằng phi hay Thị Bằng cả.
Theo cách phân cấp và định danh cho tất cả các bà trong nội cung thời bấy giờ, họ được chia ra làm hai tầng bậc cách biệt nhau rất xa và rõ rệt: hậu và phi. Hậu là vợ chính của vua, còn gọi là Hoàng hậu. Phi là vợ thứ, vợ lẽ của vua, còn gọi chung là phi tần. Dưới thời Tự Đức (1848-1883), không có bà nào trong nội cung được phong là Hoàng hậu cả, chỉ có một bà được phong là Hoàng Quý phi. Địa vị Hoàng Quý phi đứng trên tất cả các bà phi tần khác trong cung và hàng ngày giữ trọng trách điều khiển, trông coi cả Lục viện. Cách định vị chức phận và thiết lập kỷ cương này đã bắt đầu có từ thời Minh Mạng (1820-1840). Tất cả các bà ở đó đều đã được tổ chức một cách chặt chẽ. Tuy có sự khác nhau đôi chút về danh xưng dành cho các bà tuỳ theo từng thời điểm lịch sử, nhưng nhìn chung, từ thời Minh Mạng đến thời Tự Đức, ngoài bà Hoàng Quý phi ở địa vị quan trọng nhất, tất cả các bà khác trong nội đình đều được chia ra làm 9 bậc, gọi là "cửu giai", cũng như các quan trong triều đình được chia ra làm "cửu phẩm" vậy.
Quốc Sử Quán đã ghi rõ trong sách "Đại Nam thực lục" rằng vào tháng 5 năm Tự Đức thứ 3, tức là tháng 6-1850, nhà vua xuống dụ "định rõ thứ bậc ở Nội cung". Theo tờ dụ này, "về Hoàng quý phi trở lên, đã có lệ sẵn", còn từ phi tần trở xuống, thì chia làm 9 bậc với các danh xưng và mỹ từ như sau: 1. Nhất giai phi: gồm Thuận phi, Thiện Phi, Nhã phi. 2. Nhị giai phi: gồm Cung phi, Cần phi, Chiêu phi. 3. Tam giai tần: gồm Khiêm tần, Thận tần, Nhân tần, Thái tần. 4. Tứ giai tần: gồm Khoan tần, Giai tần, Tuệ tần, Gián tần, Giản tần. 5. Ngũ giai tần: gồm Tĩnh tần, Cẩn tần, Tín tần, Uyển tần. 6. Lục giai: Tiệp dư. 7. Thất giai: Quý nhân. 8. Bát giai: Mỹ nhân. 9. Cửu giai: Tài nhân (13). Riêng hàng phi trong 9 bậc ấy, đến tháng 12 năm Tự Đức thứ 14, tức là tháng 1-1862, Cần phi được đổi thành Đôn phi(14), và sau đó một tháng, Chiêu phi được đổi thành Mẫn phi(15) ... Mặc dù trong thời gian tại vị, vua Tự Đức có đến hơn 100 bà vợ như đã nói, nhưng chỉ có rất ít bà trong số đó được phong đến hàng phi. Theo thông lệ của triều Nguyễn, con gái của các trọng thần, dù mới tiến cung cũng được xếp vào hàng tần hoặc hàng phi ngay, còn con gái của các quan lại cấp thấp hoặc con nhà dân dã tuyển chọn từ ngoài vào, dù đẹp người đẹp nết đến đâu, lúc mới nhập cung cũng phải liệt vào hàng "Cửu giai Tài nhân", hoặc thậm chí chưa được xếp vào hàng đó nữa, gọi là "Tài nhân vị nhập giai".
Ngay cả một người phụ nữ thông minh, có tài văn chương và được sủng ái đặc biệt như Nguyễn Thị Bích (1830-1909), con gái của Hộ lý Tổng đốc Thanh Hóa Nguyễn Nhược Sơn; nhập cung năm Tự Đức nguyên niên (1848), lúc mới 19 tuổi, cũng chỉ được liệt vào hàng "Tài nhân vị nhập giai". Đến năm Tự Đức thứ 3 (1850), bà mới được phong làm Tài nhân, sau đó 10 năm (1860), được phong làm Mỹ nhân, rồi Quý nhân, và đến năm 1868, bà được tấn phong làm Tiệp dư. Cho đến cuối thời Tự Đức (1883), bà chỉ được phong ngang bậc đó. Bà là tác giả của tập thơ Nôm nổi tiếng "Hạnh Thục ca" kể về sự kiện thất thủ Kinh đô Huế năm 1885. Mãi đến năm Thành Thái thứ 4 (1892), bà mới được phong làm "Tam giai lễ tần"(16), vẫn chưa đạt đến hàng phi.
Nay đọc lại sử sách triều Nguyễn, chúng ta thấy suốt thời Tự Đức, trong số các bà "phi tần trở xuống", chỉ có 3 bà được phong lên hàng phi. Đó là bà Thiện phi, bà Học phi và bà Cung phi. Tất nhiên, đứng trên 3 bà phi ấy là bà Hoàng Quý phi ở địa vị đặc biệt. Xin tóm lược tiểu sử của cả 4 bà để thử tìm xem trong đó có bóng dáng của bà "Bằng phi" nào đó hay không. 1. Bà Hoàng Quý phi: Bà tên thật là Vũ Thị Duyên (còn có tên huý là Hài), sinh năm 1828, con gái của đại thần Vũ Xuân Cẩn. Bà được tuyển vào cung làm vợ vua Tự Đức từ năm 1843 khi nhà vua chưa lên ngôi. Sau khi vua đăng quang, năm 1848, bà được phong làm Cung tần, rồi lần lượt được thăng lên Cần phi (1850), Thuần phi (1860), Trung phi (1861). Đến năm 1870, bà mới được tấn phong làm Hoàng Quý phi(17). Bà là mẹ nuôi của "Hoàng trưởng dưỡng tử" Dục Đức (sau đó làm vua chỉ được 3 ngày thì bị bức tử). Khi chết vào năm 1902, bà được triều đình Thành Thái tặng thụỵ hiệu là Lệ Thiên Phụ Thánh Trang Ý Thuận Hiếu Cần Thứ Ôn Từ Hiền Minh Tĩnh Thọ Anh Hoàng hậu. Miếu hiệu của bà là Lệ Thiên Anh Hoàng hậu(18). Như vậy, bà mất sau vua Tự Đức đến 19 năm (1883-1902). Việc than khóc thương tiếc nếu có thì chỉ có việc bà khóc vua Tự Đức khi nhà vua thăng hà, chứ không có chuyện nhà vua khóc bà này.
2. Bà Thiện phi: Bà phi này tên thật là Nguyễn Thị Cẩm, thứ nữ của Hải An Kinh lược Đại thần kiêm Định An Tổng đốc Nguyễn Đình Tân (1798-1873). Ông người huyện Quảng Điền, đậu Hương tiến (Cử nhân), làm quan từ thời Minh Mạng. Đến thời Tự Đức, dù ông là một đại thần có công, nhưng vì "con ông là Đình Cán cùng công tử Hồng Tập mưu làm trái phép, Đình Tân tri tình mà dung túng ẩn nặc, bị nghĩ tội "trượng đồ". Sau được vua gia ân cho khai phục Hồng lô Tự khanh rồi mất, truy tặng Lễ bộ Thượng thư"(19). Từ Cung tần, bà Nguyễn Thị Cẩm được phong làm Chiêu phi vào năm 1860, rồi sau đó được tấn phong làm Thiện phi(20). 3.Bà Học phi: Bà tên thật là Nguyễn Thị Hương, người gốc tỉnh Vĩnh Long. Năm 1870, theo lệnh vua Tự Đức, bà nhận công tử Nguyễn Phúc Ưng Hỗ (con của Kiên Quốc Công Nguyễn Phúc Hồng Cai: 1845-1876) bấy giờ mới 2 tuổi làm con nuôi (cho nhà vua). Về sau, vị Hoàng dưỡng tử này lên ngôi với niên hiệu Kiến Phúc (1884). 4. Bà Cung phi: Bà mang họ Lê, thường được gọi là Lê Thị Cung phi. Từ Thận tần, bà được tấn phong làm Cung phi vào tháng giêng năm Tự Đức thứ 13, tức là tháng 1-1860(21).
Xem đó thì thấy, trong số các bà vợ thuộc hàng phi của vua Tự Đức, không hề có bà nào mang danh hiệu là Bằng phi cả. Lúc còn tại thế, nhà thơ Phan Văn Dật (1909-1987), một người Huế hiểu biết nhiều về lịch sử và thơ văn triều Nguyễn, cũng đã phủ nhận bài "Khóc Bằng phi" là của vua Tự Đức. Phan Văn Dật thuộc thế hệ các nhà thơ thời tiền chiến, sống cùng thời với Thanh Tịnh, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên... Ông đã nổi tiếng trên thi đàn với những tập thơ "Bâng khuâng" (1936), "Những ngày vàng lụa" (1944)...(22). Sau năm 1975, một thi hữu cũ của ông là Chế Lan Viên từ Hà Nội vào thăm Huế và ghé thăm ông tại nhà trong Thành Nội. Trong cuộc đàm đạo giữa hai thi sĩ về thơ ca, họ có nói đến bài "Khóc Bằng phi"... Đến năm 1986, nhà thơ Chế Lan Viên đã nhớ lại và viết rằng: "Người ta bảo của vua Tự Đức. Anh Phan Văn Dật bảo tôi không phải, anh đọc tên bốn bà phi, thuộc cả lý lịch từng bà, nhưng chẳng có bà nào là bà Bằng... Tôi tin anh Dật đúng"(23).
Một loại cứ liệu đáng quan tâm nữa là những bài vị thờ các bà phi tần ở lăng Tự Đức. Nhà vua đã cho xây dựng trong khu lăng tẩm của mình hàng chục tòa nhà với những chức năng khác nhau, trong đó có Chí Khiêm Đường dùng "để thờ phụng các phi tần"(24). Riêng bà Hoàng Quý phi (Lệ Thiên Anh Hoàng hậu) thì được thờ chung với vua Tự Đức tại Hòa Khiêm Điện. Còn tất cả các bà từ hàng phi tần trở xuống đều được thờ tại Chí Khiêm Đường. Hiện nay, tòa nhà này vẫn còn hầu như nguyên vẹn, trong đó tồn tại hàng chục bài vị ghi rõ danh hiệu của các bà. Trong khi ở đó hiện có bài vị thờ bà Học phi và các bà khác thì chúng tôi không hề thấy bài vị nào ghi danh hiệu "Bằng phi" cả.
Vào năm 2007, nhà nghiên cứu Hồ Bạch Thảo ở New Jersey (Hoa Kỳ) đã viết một bài rất có giá trị để "Tìm hiểu về con người vua Tự Đức". Một trong những kết luận mà nhà nghiên cứu này nêu lên là sự nghi ngờ hữu lý về tác giả Tự Đức của bài "Khóc Bằng phi". Ông viết: "Tất cả những điều đã tìm hiểu, có thể giúp cho việc đính chính bài thơ nổi tiếng "Khóc thị Bằng"...; có thuyết gán cho Tự Đức là tác giả... "Thực vậy, xuyên qua cuộc sống lứa đôi, vua Tự Đức không phải là mẫu người đam mê về tình ái..."(25). Chúng tôi tâm đắc với nhận thức này. Mới đây, khi ấn hành công trình "700 năm thơ Huế", Ban biên soạn vẫn chọn bài thơ ấy cho là của Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (vua Tự Đức) để đưa vào công trình. Mặc dù Ban biên soạn có chú thích rằng: "Bài này cũng có quan điểm cho là không phải của vua Tự Đức, nhưng mọi phân tích cũng chỉ dừng ở mức độ phán đoán, chưa nêu được cứ liệu, ở đây chúng tôi căn cứ vào giá trị tác phẩm gắn liền với tính chất truyền tụng trong dân gian để ngõ hầu giới thiệu một áng thơ hay của Huế xưa, và cũng bảo lưu quan điểm về tác giả của bài thơ"(26).
Vua Tự Đức sống cách chúng ta đã trên dưới một thế kỷ rưỡi, còn bài "Khóc Bằng phi" thì mới xuất hiện trên sách báo cách đây chỉ khoảng 70 năm với một phong cách thơ thật lãng mạn, trữ tình. Quả thật đây là một áng thơ hay, từng được nhiều người ưa thích và thuộc nằm lòng. Nhưng đáng tiếc là chưa biết chắc được tác giả của nó là ai. Bằng những cứ liệu văn học và lịch sử, cũng như qua ý kiến của một số người có quan tâm đến vấn đề như đã nêu trên, chúng tôi cho rằng tác giả bài thơ đó không phải là vua Tự Đức. Nhưng dù sao, quá trình tìm hiểu vấn đề cũng chỉ mới đi được nửa đường. Một nửa còn lại là tìm cho ra tác giả chính xác của nó. Nghĩa là vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ. Rất mong mọi người, nhất là các nhà nghiên cứu văn học tham gia tìm hiểu và xác minh để thấy rõ hơn giá trị đích thực của bài thơ cũng như của người làm ra nó. P.T.A
(nguồn: TCSH số 237 - 11 - 2008)
(1)Trần Văn Giáp, "Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, nguồn tư liệu văn học sử Việt Nam", NXB KHXH, Hà Nội, tập II, 1990, tr. 199-201. (2) Dương Quảng Hàm, "Văn học Việt Nam", in lần thứ ba, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1961, tr. 142-143. (3) Capitaine Gosselin, "L'Empire d'Annam", Paris, 1904. Dẫn bởi Le Dr. Gaide và H. Peyssonneaux, "Prince Kiên Thái Vương", Bulletin des Amis du Vieux Hué, 1925, tr. 26. (4) "Từ điển văn học", tập II, NXB KHXH, Hà Nội, 1984, tr. 67. (5) Phan Khôi, "Chương Dân thi thoại", in lần thứ nhất, nhà in Đắc Lập, Huế, 1936, tr. 3, 6, 9, 23. (6) Dương Quảng Hàm, sách đ dẫn, tr. 142. (7) Dương Quảng Hàm, "Việt Nam thi văn hợp tuyển", Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, in lần thứ tư, Sài Gòn, 1957, tr. 151. (8) Dương Quảng Hàm, "Việt Nam văn học sử yếu", Trung tâm Học liệu Bộ Giáo Dục xuất bản lần thứ 10, Sài Gòn, 1968, tr. 392-400. (9) Thần kinh Tạp chí, số 10, tháng 5-1928, trang 914. (10) "Thánh chế văn tam tập", bản dịch của Tây Hồ Bùi Tấn Niên và Á Nam Trần Tuấn Khải, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc trách Văn hóa xuất bản, Sài Gòn, tập 2, 1973, tr. 43 và XLIX (quyển 10, tờ 7a). (11) Dẫn bởi Bửu Kế, "Lăng Tự Đức", Tạp chí Đại Học, Huế, số 31, tháng 2-1963, tr. 140. (12) Bửu Kế, nơi đã dẫn. (13) Quốc Sử Quán triều Nguyễn, "Đại Nam thực lục", bản dịch của Viện Sử Học, NXB KHXH, Hà Nội, tập XXVII, tr. 230. (14) "Đại thực lục", bản dịch đã dẫn, tập XXIX, tr. 263. (15) "Đại Nam thực lục", tập đã dẫn, tr. 279. (16) Quốc Sử Quán triều Nguyễn, "Đại Nam liệt truyện", bản dịch của Viện Sử Học, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993, tập 3, tr. 77-78. (17) "Đại Nam thực lục", bản dịch đã dẫn, tập XXXII, tr. 8-9. (18) "Đại liệt truyện", bản dịch đã dẫn, tập 3, tr. 67-77. (19) Quốc Sử Quán triều Nguyễn, "Đại Nam nhất thống chí" (thời Duy Tân), Thừa Thiên phủ, bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1961, tập trung, tr. 64. (20) "Đại thực lục", bản dịch đã dẫn, tập XXVII, tr. 231. (21) "Đại Nam thực lục", bản dịch đã dẫn, tập XXIX, tr.95. Xem thêm "Nguyễn Phúc tộc thế phả" do Vĩnh Cao và nhóm cọng tác viên biên soạn, NXB Thuận Hóa, Huế, 1995, tr. 346-349. (22) Hoàng Trọng Thược, "Hương Bình thi phẩm", xuất bản tại Sài Gòn, 1962, tr. 185-193. (23) Chế Lan Viên, "Sông Thương, sông Hương trong dòng văn học", trong tập "Bài thơ thôn Vĩ, thơ viết về Huế trước năm 1945, Sông Hương xuất bản, Huế, 1987, tr. 21. (24) Trích từ "Khiêm Cung ký", bản dịch của Bửu Kế, Tạp chí Đại Học, Huế, số 30, tháng 12-1962, tr. 916. Xem thêm bản dịch trong: "Đại thực lục", tập XXXI, tr.158. (25) Hồ Bạch Thảo, "Tìm hiểu về con người vua Tự Đức", Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế, số 5 (64), năm 2007, tr. 50. (26) "700 năm thơ Huế (1306-2006)" (dày 1.177 trang), NXB Thuận Hóa, Huế, 2008, tr. 135.
|