Tác giả-tác phẩm
Bốn bài thơ xuân của Phạm Phú Thứ viết về Huế
14:39 | 17/09/2025

QUANG UYỂN

Thơ Xuân của Phạm Phú Thứ (1821-1882) viết về Huế, có nhiều vì ông ở cố đô trên hai mươi năm - già nửa cuộc đời làm quan của ông.

Bốn bài thơ xuân của Phạm Phú Thứ viết về Huế
Đại thần Phạm Phú Thứ - Ảnh: wikipedia

Nhưng, ở đây, chúng tôi chỉ chọn bốn bài có ý nghĩa nhất đối với cuộc đời của tác giả: bốn bài làm lúc ông là một người tù cắt cỏ ngựa ở trạm (công văn) Thừa Nông (ở chỗ ga Nong bây giờ).

Số là, năm Tự Đức thứ 3 (1850), khi đang làm chức khởi cử chú (thư ký ghi lời nói và việc làm của vua) ở kinh diên (phòng đọc sách của vua) thuộc Viện Tập hiền (Viện Văn học của vua), ông nhị nguyên hai mươi chín tuổi đó, đã cả gan phê bình vua ham mê vui chơi, bỏ lơi triều chính, bằng những lời lẽ thiết tha và thẳng thắn mà người dám nói đó phải trả bằng một giá đắt: bị triều đình kết án đày khổ sai vì tội phạm thượng.

Thân thích và bạn bè (trong đó có ông hoàng thúc Thương Sơn, thám hoa Phan Thúc Trực, giải nguyên Đặng Huy Trứ v.v...) thương lo cho số phận của ông, nhiều người đến thăm ông ở trại tù. Nhưng ông cứ thản nhiên, ung dung tự tín về việc làm đúng của mình, sau những giờ lao dịch thì câu cá, ngắm cảnh, thù tiếp bạn bè và ngâm vịnh, lấy câu nói của thầy Mạnh làm châm ngôn: "Ta việc gì mà chẳng vui?". Trong thời gian này, ông lấy biệt hiệu "Nông giang điếu đồ" (gù câu cá sông Nong) và sáng tác tập thơ “Nông giang thi lục” (sau này được xếp vào quyển 3/26 của bộ "Giả Viên toàn tập"). Ngoài ra, còn một số bức thư mà nổi bật nhất là bức thư trả lời ông anh cả cử nhân Phạm Phú Duy; ngỏ ý muốn dời mộ ông cụ thân sinh để em được thoát nạn.


Bài 1. LỤC NGUYỆT HI NHẬT NÔNG GIANG VÃN THIU

Sơn như bút giá, thủy như trì
Chỉ xích phong quang vãn cánh nghi
Cách độ nhân thanh huyên xã thị
Dao (diêu) thôn tà chiếu quải xuân kỳ
Tiều ngư lạc thú điền gia cận
Mai liễu hương phong dịch lộ trì
Chân cảnh thiên nhiên bức đ hội
Khách lai giang thượng tự đề thi

Dịch: Sông Nong nhìn xa chiu ba mươi tháng chạp

Non như giá bút, nước như nghiên
Cảnh sắc chiều tà đẹp một miền
Cách bến đò ngang, ồn tiếng chợ
C xuân nắng đọng, tít thôn bên
Ngư tiều vui thú, nhà nông kế,
Mai liễu gió thơm, ngựa trạm truyền
Phong cảnh thiên nhiên như tranh vẽ
Bên sông, khách đến vịnh thơ liền.


Bài 2: TRỪ TỊCH THỦ TUẾ

Nhất đông hàn tận, kiến xuân huyên
Lộ bạch phong nhu, dạ khí ôn
Độc tự tuần thiềm vọng tinh đu,
Thâm tiêu quang thái triệt giang thôn...

Dịch: Giờ giao thừa đêm ba mươi tháng chạp

Ấm xuân kế tiếp rét đông qua,
Đêm ấm, sương trong, gió phất phơ
Thơ thẩn ngoài hiên trông tinh tú
Đêm khuya, sông xóm cnh nên thơ


Bài 3: TÂN HỘI NGUYÊN ĐÁN THỨ BÚT

Đông phong tạc dạ nhập giang đàm
Trúc ngoại, tình lưu, quyện hiểu lam
Vương khuyết, xuân liên Bình lĩnh (lãnh) bắc
Phần hương, thiên tại Hải Vân nam
Dung thân, trực thị càn khôn đại
Ẩm tiết do tri vũ lộ cam
Nhiễm hàn h niêm tân tuế nguyệt
Hồng tiên đề xứ khởi xuân tàm

Dịch: Thử bút sáng mồng một năm Tân Hợi

Gió đông đêm trước lọt sông đm
Bờ trúc, dòng sông cuốn khói lam
Núi Ngự, Xuân về trên đất bắc
Hi Vân, quê đẹp dưới trời nam
Thân yêu, ấy bi Đất Trời rộng
Rượu Tết, là nhờ mưa móc dm
Bút trơn thử ghi thơ chúc Tết
Giấy hồng dán đó, dậy nong tằm


Bài 4: TỨC SỰ

Thôn cư hà vt chí tân niên?
Môn ngoại, hồng niêm tải lộ truyền
Kiến thuyết ky nhân do súc mặc,
Yêu đề danh cú tác xuân liên

Dịch: Cảm nghĩ về việc trước mắt

Thôn quê Năm Mới, viết gì đây?
Ngoài cửa, giấy hng: lệnh chúa này
Thấy nói tù nhân đà sẵn mực
Mừng Xuân, câu đối muốn làm hay.

Quang Uyển sưu tầm và dịch - Nguyễn Đình Thảng viết chữ Hán
(TCSH60/02-1994)

 

Các bài đã đăng