Tác giả-tác phẩm
Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ từ thời chiến đến thời hậu chiến
09:55 | 20/10/2025

HỒ THẾ HÀ

Lâm Thị Mỹ Dạ có hành trình và hành trang thơ ngày càng dài và trĩu nặng ưu tư cùng năm tháng - những năm tháng chẳng bình yên với một hồn thơ “không lúc nào tĩnh vật” mà cứ mãi “thiết tha đời như ngọn cây”.

Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ từ thời chiến đến thời hậu chiến
Ảnh: tư liệu

Một đời thơ như thế phải nói là khổ đau và hạnh phúc. Và điều còn lại của nỗi đau sáng tạo đó, chính là thơ. Thơ là chứng chỉ thời gian và chứng chỉ tinh thần của chính người thơ trên cánh đồng tình yêu thi ca vĩnh cửu.

Hành trình thơ Lâm Thị Mỹ Dạ có thể chia thành 2 chặng nối tiếp nhau trong cả hành trình.

1. Những vần thơ tươi xanh thời chiến

Lâm Thị Mỹ Dạ là nhà thơ được bạn đọc yêu quý ngay từ những sáng tác đầu tay, lúc tuổi đời còn rất trẻ. Điều đó có liên quan đến điều mà người ta gọi là năng khiếu bẩm sinh. Nhưng năng khiếu bẩm sinh cũng chỉ là năng khiếu nếu nó không hiện lên thành hình hài câu chữ thi ca, nếu tâm hồn người làm thơ nguội lạnh và thờ ơ với những tơ non hoa cỏ và những hệ lụy của hiện sinh cõi người. Lâm Thị Mỹ Dạ hiểu sâu sắc cái chân lý bình thường đó của thơ, của sự đam mê thơ như chính chị đã ý thức và chân thành thổ lộ: “Sự đam mê thơ, đam mê cái đẹp là sự thành công một nửa của người làm thơ. Thơ là cái mới mẻ trong cái bình thường. Nhìn thấy nó đã khó, mà diễn tả được nó càng khó. Người ta chỉ đạt đến thơ như khi một quả trứng nóng bức tới mức tự nó phải tách vỏ nở ra đời sống - một đời sống sinh động, có hình hài. Nếu vội vã bóc lớp vỏ đi khi chưa đến độ thì sẽ chẳng bao giờ đạt đến thơ mà chỉ có những ngôn từ chết.” (Nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2010, tr.366).

Ngoài truyện viết cho thiếu nhi và âm nhạc, Lâm Thị Mỹ Dạ dành tâm huyết đời mình để sáng tạo thơ. Thơ chị đa dạng về chủ đề và giọng điệu; độc đáo về hình ảnh và liên tưởng; bất ngờ về cấu tứ và suy tưởng. Chị là một trong những nhà thơ hiện đại có cá tính và phong cách sáng tạo giàu phẩm chất nữ tính, luôn tạo được sự tươi non, mới lạ cho thơ. Chị luôn tìm tòi, sáng tạo mới, không dễ dãi lặp lại chính mình. Có được điều đó là do chị biết phát hiện và thổi vào từng sự vật, hiện tượng cũng như từng quan hệ và trạng thái tình cảm những suy nghĩ chân thành của mình thông qua các kiểu liên tưởng vừa cụ thể vừa khái quát, vừa lãng mạn vừa hiện thực, vừa cổ điển vừa hiện đại.

Trong bài viết này, tôi muốn ôn lại những vần thơ hồn nhiên nhưng thấm đẫm cảm thức về cuộc sống và con người trong chiến tranh của Lâm Thị Mỹ Dạ từ những ngày đầu chị dấn thân vào nghiệp bút ở chiến trường. Phải nói là xúc động khi đọc lại những bài thơ của Mỹ Dạ viết về những người nữ thanh niên xung phong, những người anh hùng trong chiến đấu, những người mẹ, người chị, người bạn một thời trận mạc, có cả những bài thơ chị viết cho những người mẹ, người lính Mỹ ở bên kia chiến tuyến. Tất cả đều chân thành, da diết và thống thiết nhân văn, làm hiện lên tình người trong chiến trận và những giá trị vĩnh hằng của nhân dân và Tổ quốc Việt Nam một thời vinh quang và đau khổ.

Mỹ Dạ quan sát cuộc sống thời chiến bằng con mắt ngỡ ngàng, độ lượng. Vì vậy mà thơ chị có sức hóa giải theo chiều hướng tích cực và nhân bản:

Đêm qua bom nổ trước thềm
Sáng ra, trời vẫn ngọt mềm tiếng chim
Nghe hương cây vội đi tìm
Hai chùm ổi chín lặng im cuối vườn
                                   
(Hương vườn)

Nhìn đâu cũng thấy trời xanh, chim ca và hoa nở. Phải chăng đó là liệu pháp tâm lý để hóa giải sự khốc liệt của đạn bom? Ngày tiễn bạn ra chiến trường, nhìn hoa sen, tác giả như thấy được niềm vui chia sẻ và khát vọng trong cách chia:

Bông sen trắng, bông sen hồng
Nở ra từ giữa xanh trong vòm trời
Lòng em - hồ rộng anh ơi!
Mỗi bông hoa nói mỗi lời yêu thương
                       
(Tiễn anh bên đầm sen)

Cả trong biệt mù xa cách, Lâm Thị Mỹ Dạ cũng có cái nhìn biếc xanh như thế. Đứa con chào đời không có bố kề bên, nhưng có một sợi dây tình cảm thiêng liêng gắn chặt. Hình ảnh người mẹ thật cảm động: “Mẹ sẽ nhận phần bão táp/ Khi đạn bom thù chuyển rung/ Cho con ngọt ngào êm mát/ Hai bầu sữa mẹ thơm trong” để ngày chiến thắng trở về: “Bố sẽ thơm lên má con/ Chiếc hôn dài hơn xa cách/ Bố sẽ bế con quay tròn/ Như xoay mấy vòng quả đất”. Cho nên cuối cùng, cũng lại là hy vọng:

Mùa xuân lên xanh dây trầu
Trăng non lên xanh đêm thâu
Con là trăng non của mẹ
Mọc từ lòng mẹ thẳm sâu

            (Nói chuyện với con trước giấc ngủ)

Khi “Đất nước chưa bình yên/ Bài thơ còn trận mạc” thì chẳng bao giờ có chỗ đứng cho những yếu mềm, giả dối “Chẳng bao giờ nguôi quên/ Quãng đời mình đã trải/ Cái chết bao đồng đội/ Là vết - thương - thời - gian” (Bài thơ không năm tháng). Sau những da diết phân ly, tình yêu trong nhau còn mãi, kết thành chuỗi ngọc đợi chờ long lanh màu nhớ: “Những ngày không anh/ Áo thơm màu nhớ/ Những ngày không anh/ Em mơ gặp gỡ/ Chiến tranh còn đó/ Hạnh phúc còn xanh” (Những ngày không anh). Trong chiến tranh, Mỹ Dạ đã đón trước ngày trở về cùng người bạn tâm tình đi trong xôn xao màu trắng của đêm trăng để hồi sinh những hồng hào thủy chung, ân nghĩa: Trăng lên rồi mây trắng bay bay

Trắng dịu dàng là trắng của bàn tay
Trắng xao động trắng ngời của sóng
Trắng mịn màng - triền cát dài trăng rộng
Trắng rất thơm - trắng của bông hoa
Ôi đêm nay ai nói được nên lời
Đêm màu trắng, tâm hồn ta rung động
Những họng súng vươn lên trời cao rộng
Giữ cho nghìn trong trắng mãi sinh sôi

                        (Đi trong đêm màu trắng)

Lâm Thị Mỹ Dạ thường liên hệ sự sống, sự hồi sinh thông qua những hình ảnh non tơ, bé bỏng nhưng có sức lay động lớn. Từ tứ thơ “Trẻ con là nơi sinh nở những chiếc hôn”, tác giả liên hệ đến cái chết của những người mẹ chiến đấu không còn gặp lại con mình để rồi chính mình tự nguyện làm người mẹ tinh thần xoa dịu nỗi đau cho những cuộc đời bé nhỏ: “Tôi chạy về với các em lòng như lửa cháy/ Mắt trong veo, các em ngồi đấy/ Ôi bầy chim nhỏ của tôi!/ Chiến tranh còn là còn trẻ mồ côi” (Chuyện một cô bảo mẫu). Như một quy luật của tình cảm, khi đất nước chiến tranh thì nỗi đợi chờ thành khát vọng dịu dàng để tin yêu và hy vọng:

Đất nước chiến tranh nỗi đợi chờ như lửa cháy
Mà trái tim kiên tâm dịu dàng như bầu trời sao
…Mấy nghìn năm qua
Ai đếm được những cuộc chia ly trong lòng đất nước
Đất nước của vô vàn những cuộc chia ly
…Da diết lòng em khi gốc xoan đầu ngõ
Lại nở bừng sắc tím buổi ra đi
                                   
(Cô gái trong ca dao)

Cho nên ngày trở về, dẫu có thành phế nhân mù lòa thì tình yêu trong mỗi hồng cầu của người lính lại thành ánh sáng diệu kỳ vì có đôi mắt em ngày tiễn đưa tỏa sáng. Đôi mắt ấy là cửa sổ tâm hồn để anh nhìn xa vào màu đen những điều kỳ diệu khác:

Tôi trở về quê hương
Biết tám năm người yêu tôi vẫn đợi
Lòng chung thủy làm tim tôi đau nhói
Biết bao lần tôi lẩn trốn em
Em đến tìm tôi, đôi mắt giống xưa không
Tôi nhìn em trong trí nhớ
Tôi ngắm em trong kỷ niệm
Tiếng em gọi làm lòng tôi xao xuyến
Giọng em cười sao quá thơ ngây
Và chúng tôi bước bên nhau tay nắm trong tay
Nói bao chuyện ngày xưa chưa nói hết
                       
(Anh thương binh kể chuyện)

Trong chiến tranh, con người tin ở hai bàn tay “việc chi làm cũng được” cho mặt đất mãi hồng tươi màu hy vọng, dù “Màu vàng bom bi lẫn trong màu vàng của lúa” thì trong đêm sâu trên cánh đồng mùa gặt “Mỗi người đội một vành trăng nhỏ/ Chấp chới nghiêng trên thảm lúa vàng”. Đó là sự hóa giải giữa cái bình thường trong cái phi thường của lửa đạn chiến tranh: “Đạn bom thù chẳng sợ đâu/ Chỉ e sương ướt mái đầu lá chanh” (Gặt đêm). Lòng tin vẫn vẹn nguyên như thuở ban đầu:

Bao năm rồi đánh Mỹ
Lòng tin vẫn y nguyên
Đạn bom không xóa được
Nét mùa xuân hồn nhiên
                       
(Tiếng mùa xuân)

Mỹ Dạ ngắm nhìn Tổ quốc trong từng liên tưởng gần gũi mà bền chặt, gắn với những gì thiêng liêng và sâu nặng nhất. Chúng kết tinh thành tình yêu và những giá trị văn hóa ngàn đời. Chị thấy được “Tiếng đàn bầu là Tổ quốc trong tôi”, “Lời mẹ là Tổ quốc trong tôi”, “Giọt mồ hôi là Tổ quốc trong tôi”… để mãi mãi trong trái tim những người yêu nước mình luôn rung lên những nhịp đập tình người da diết:

Tổ quốc ở trong lồng ngực tôi đây
Trong hơi thở, trong mặn nồng máu thịt
Trong giọng nói, trong giọng cười tha thiết
Trong suốt cuộc đời cơ cực, sướng vui

                                    (Tổ quốc)

Tôi đặc biệt chú ý đến các bài thơ sáng tác trực tiếp của Mỹ Dạ ở chiến trường qua cách quan sát, nắm bắt cuộc sống và con người rất tinh tế và sâu sắc của chị. Nhìn ngã ba ở hỏa tuyến, tác giả lại nghĩ về những điều cao hơn chính nó. Ngã ba của bi thương và hy vọng, của sự hóa thân vào đất những khát vọng vĩnh cửu:

Thức mấy đêm ròng cho xe pháo vượt qua
Ngã ba, ngã ba
Những chùm sao tụ lại
Trời xanh thế, sao thì trẻ mãi
Đêm trực đường sao rơi đầy mắt em
Ngã ba, ngã ba
Trái tim của đất
Lại hồng hào những mạch máu đi xa
nơi đây máu đồng chí đổ ra
Đất nhận lấy như nhận về lẽ phải
                                   
(Ngã ba)

Cùng mạch cảm hứng và triết lý này, Mỹ Dạ có bài thơ độc đáo: Khoảng trời hố bom. Bài thơ nói về hình ảnh người nữ thanh niên xung phong “lấy tình yêu Tổ quốc mình thắp lên ngọn lửa” trong đêm để đánh lạc hướng quân thù cho con đường vẹn nguyên và đoàn xe kịp giờ ra mặt trận và nhận cái chết cao cả về mình. Cái chết của cô gái liền biến thành sự sống, thành tình yêu sâu nặng cho đời. Nhìn khoảng trời hố bom, hình ảnh cô gái như vẫn còn vẹn nguyên trong tâm tưởng mọi người: “Một nấm mồ nắng ngời bao sắc đá/ Tình yêu thương bồi đắp cao lên”. Trực giác và cảm xúc đã giúp Mỹ Dạ nảy ra tứ thơ sâu sắc. Chết không có nghĩa là mất đi mà chết là sự hóa thân vào đất để mãi còn đây khoảng trời xanh con gái, thành sự bất tử long lanh dưới ánh nắng trời:

Em nằm dưới đất sâu
Như khoảng trời đã nằm yên trong đất
Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng
Những vì sao ngời chói, lung linh

Có phải thịt da em mềm mại trắng trong
Đã hóa thành những làn mây trắng?
Và ban ngày khoảng trời ngập nắng
Đi qua khoảng trời em - Vầng dương thao thức
Hỡi mặt trời, hay chính trái tim em trong ngực
Soi cho tôi
Ngày hôm nay bước tiếp chặng đường dài
                                   
(Khoảng trời hố bom)

Sự hy sinh của nữ anh hùng Trần Thị Tâm cũng được tư duy theo tinh thần bất tử đó. Một cuộc đời âm vang như biển, một niềm tin trắng ngát thời gian trước khi vĩnh biệt cuộc đời, đất đai tỏa rạng: “Đất gầm lên rồi đất bỗng im lìm/ Chiếc hầm nổ tung, chị vỡ thành ánh sáng/ Máu xương chị đất đai tỏa rạng” (Một cuộc đời âm vang).

Đặc biệt, Lâm Thị Mỹ Dạ có chùm thơ viết về người lính Mỹ, về những người mẹ Hoa Kỳ có con tham chiến và chết ở Việt Nam rất xúc động. Chị nhập vai - hay đúng hơn là chị đã hóa thân vào họ để nói lên tiếng nói sẻ chia, thức nhận niềm tin vào chính nghĩa cùng những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Qua đó, tự chúng cũng có vai trò tố cáo cái ác đã làm hủy hoại mọi giá trị nhân bản vốn có của con người. Thông điệp thơ là lời tự thú của những người lính Mỹ mang trái tim không thù hận, thơ ngây:

Tôi muốn làm con nai nhỏ
Chạy hoài dưới trời cỏ xanh
Đừng bắt tôi đi vào rừng rậm
Tôi sẽ hóa thành chó sói dữ dằn
Những mưu chước lưới đời ai lường được
Sự dối lừa
Trá hình trong giọng lưỡi ngọt ngon
Tôi là con nai quá đỗi ngu đần
Đã xa đi đồng cỏ tươi xanh
Khuôn mặt tôi khuôn mặt chó sói
Trong hang sâu, trong bóng tối lặng thầm
Nghe ai gọi giật mình chợt tỉnh
Nhớ một thời trong suốt mắt nai in
Rồi có lúc cuối đường tôi gục ngã
Viên đạn ai găm khuôn ngực máu đầy
Xin hãy giở dưới làn da chó sói
Trái tim nai thắm đỏ, thơ ngây!
                                   
(Khuôn mặt ẩn kín)

Giờ đây, nước Mỹ đã dựng bức tường đen khắc tên 580 ngàn lính Mỹ đã tử trận trong cuộc chiến ở Việt Nam là một sự thật nhức buốt, có sức ám ảnh lớn đối với những ai yêu chuộng hòa bình, công lý. Nhà thơ đã tận mắt nhìn thấy những người mẹ Mỹ run rẩy bên bức tường đen tìm tên con trong nhạt nhòa nước mắt:

Bức tường đen - Những linh hồn chết
Bức tường đen - Những con người
Những cuộc đời
đã biến thành khói
đã biến thành bụi
đã biến thành gió
đã biến thành sương
đã biến thành vết thương
Trong ngực bà - người mẹ Mỹ

Và tác giả đã nhập thân vào hình ảnh lặng lẽ của bà mẹ Mỹ lần những ngón tay gầy lên từng bia đá mà nhói buốt tâm can. “Tôi đã đến đây bằng trái tim người Mẹ/ Khóc cùng người mẹ Mỹ mất con”. Tiếng khóc âm thầm mấy mươi năm nhưng không bao giờ cũ, rơi xuống từng bia tưởng niệm thành những bông hoa có hình “giọt nước mắt như giọt lửa/ bỏng rát” để hiện lên những trái tim áp vào ngực mẹ - “Một trái tim/ Nặng hơn quả đất”.

Và tác giả như chao đảo, mù lòa trước nỗi đau người mẹ Mỹ. Những âm bản cuộc sống hiện ra qua màu đen của sự ngộ nhận, của ám ảnh về cái chết, của sự thơ ngây để còn đây bức tường đen mãi mãi không bao giờ là vết thương vô nghĩa khác tái hiện trên trái đất bão dông này:

Ở đây chỉ có một màu đêm
Những bình minh đã chết
Tuổi trẻ đầu xanh đã chết
Cái ác, sự ngộ nhận, niềm thơ ngây đã chết
Những tâm hồn tắt lặng…
Nhưng
Hãy nhìn xem
Những tên người đang chảy máu
Hãy nhìn xem
Những tên người đang chảy máu
Hãy nhìn xem
Bức tường đen như một vết thương
Nằm im lặng giữa lòng nước Mỹ
Nhức nhối
Không bao giờ thành sẹo
                       
(Bức tường đen)

Thơ viết về chiến tranh của Lâm Thị Mỹ Dạ mãi đánh thức tình yêu và lòng nhân ái của con người hôm qua, hôm nay và mai sau bởi cái nhìn của người trong cuộc, luôn cháy bỏng những khát vọng hòa bình và tươi xanh màu hy vọng. Chiến tranh đã kết thúc và cuộc sống đã hồi sinh nhưng những bài học về đạo đức và tinh thần lại mở ra từ những bài học về nỗi đau và kinh nghiệm của chiến tranh. Thơ hơn thể loại nào khác phải mang thông điệp nhân văn từ cảm thức của con người hôm nay để con người nhận thức về chúng và biết chắt chiu tình yêu trong hiện tại. Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xuất phát từ nhu cầu đó của con người trong chiến tranh và cả trong hòa bình để tái hiện và cảm thức. Và kỳ diệu thay, thơ Mỹ Dạ đã tìm được điểm gặp nhau muôn thuở của nhân loại: Đó là vấn đề lựa chọn hành vi đạo đức và thông điệp chung sống hòa bình cho hành tinh mang tên trái đất của chúng ta. Mãi còn đây khoảng trời xanh buốt nhức nhưng đầy tin yêu da diết trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ:

Như cái chết cháy thành ngọn lửa
Thắp sáng mùa đông sưởi ấm những mầm non.

2. Những vần thơ cách tân theo khuynh hướng hiện đại thời hậu chiến

Thời hiện đại, theo quy luật tăng tốc của cuộc sống, thơ lại làm một cuộc hành trình đầy phiêu lưu, bất ngờ bằng cái nhìn dự cảm diệu kỳ. Cái tôi của từng nhà thơ không còn đóng khung trong một khuynh hướng số đông chính là do sự đa diện và vi diệu của cuộc sống và sự nhạy - cảm - thi - sĩ của từng chủ thể sáng tạo quy định.

Ý thức tìm kiếm thế giới nghệ thuật riêng lại có dịp đánh thức trái tim dại ngộ nhưng giàu đam mê của từng nhà thơ đã đem lại cho thi đàn những gương mặt vô cùng khả ái. Lúc ấy, dù nhà thơ có muốn níu giữ mình, họ cũng sẵn sàng bỏ rơi mình để thực sự dấn thân vào những vương quốc mới lạ của cõi tâm linh huyền ảo. Đó là vương quốc của hiện thực được thăng hoa qua sự dẫn dắt và mơ mộng thi ca. Phải chăng trong sự tỉnh táo hầu như phải va chạm hằng ngày của kiếp đời đã làm cho mỗi cá thể tự giàu có hơn lên trong ý nghĩ tích cực và nhân bản của từ này, thì đối với thi nhân, hình như sự tỉnh táo ấy thôi chưa đủ, mà phải tìm đến những phạm trù, những topiques khác của tâm thần - hệ (psychisme) chính mình mới mong tìm ra những hệ quả hiện thực đầy bí ẩn tươi non của cuộc sống và sự thầm kín run rẩy của tâm hồn?

Thi sĩ có nhu cầu sống trong mơ, bởi vì những khoảnh khắc kỳ diệu ấy đã đánh thức ở họ những “bừng ngộ” của cả những gì đã sống qua nhưng vùi sâu vào quên lãng hoặc cả những gì còn mơ hồ, nhưng dần dần hiện lên sau bập bùng ngọn lửa của trực giác mách bảo, nó chứa cả ước mơ và dự phóng mà có khi, trước đó, họ chưa bao giờ nghĩ ra. Quả thật, khi ấy, giấc mơ có giá trị hơn sự tỉnh táo thản nhiên, vì nó đã bày ra cả những gì gọi là khát vọng, nghiệm lý và cả những gì gọi là vô vọng và nhạt nhẽo của hiện sinh con người. Và cũng khi ấy, những vấn đề giữa thực và mộng đều có thể được lý giải đến tận cùng, hầu như tuyệt đối mà không phải mọi người đều kịp nhận ra ngay lập tức.

Điều này, có lẽ chủ nghĩa siêu thực trong thơ ca phương Tây đã có lý nhưng do cách tổ chức ngôn ngữ một cách quái đản (chữ dùng của giáo sư Phan Ngọc) đến nỗi người đọc tưởng như phi lý, phi hiện thực.

Ở Việt Nam, những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX đã diễn ra cuộc kiếm tìm đầy ngoạn mục này mà thành công không phải bao giờ cũng vẫy chờ phía trước cho mọi nhà thơ.

Lâm Thị Mỹ Dạ - nhà thơ nữ hiếm hoi thời hiện đại tự nguyện đi vào thế giới rộng rinh, huyền ảo ấy và vững tin mình không lạc khỏi chính mình. Tập thơ Đề tặng một giấc mơ (Nxb. Thanh Niên, Hà Nội, 1998. Giải nhất của UBTQ các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam 1998) của chị đã khẳng định một thi pháp riêng. Thi pháp ấy lấy chính bản thân mình làm đối tượng và dám vực dậy từ những giấc mơ tro vùi, những “Dư âm mặn như nước mắt”, “Những chiếc lá phát sáng màu huyền thoại” và nỗi buồn “Chết như từng giọt sương/ Rơi không thành tiếng” để “mơ thành giấc mơ”, để nhìn ra tha nhân và nhận lại những ngọt ngào, hy vọng sau khi đã soi thấy tận sâu thẳm tâm hồn mình “như bầu trời thấy mình qua dòng sông”. Ở đó, tác giả tự thanh lọc và rút ra quy luật “Sức mạnh phù du chỉ là thoáng chốc”, bởi vì muôn đời “vầng trăng xanh biếc”“Trái tim dịu dàng/ Dịu dàng đến tận cùng trong suốt” vẫn đang đồng hành cùng tình yêu và cõi nhớ.

Đề tặng một giấc mơ - Bài thơ đầu tập lấy làm tên cho tập thơ là lối vào thế giới của những hình ảnh và tâm trạng kỳ thú. Mở đầu bài thơ, qua hình tượng “Con chim mang giấc mơ bay đi/ Chú bé ngủ dưới trời sao sáng” - một thế giới đầy hương hoa, thanh thản đến thanh bạch, chỉ có trời xanh cao rộng và mặt đất đầy cỏ dịu êm đang che chở cho giấc mơ ngọt ngào. Chú bé mơ thành chim lại mang giấc mơ bay đi với bao khát khao trên đôi cánh mộng “Con chim trong mơ như nàng tiên cá”. Đó là khát vọng bình yên, hạnh phúc. Giấc mơ tiếp tục thăng hoa, có những hạt ngọc tỏa sáng từ trái tim biến thành giọng hót rực rỡ để “suốt đời/ cất giữ/ tặng riêng/ cho Người”. Chú bé trôi trong cảm giác kỳ diệu, bồng bềnh của cõi vô thức, mộng du:

Bay qua, bay qua nghìn đêm
Bay qua, bay qua ngàn sao
Những chiếc lá phát sáng màu huyền thoại
Những bông hoa mang hình bàn tay ngón tay
Ru ru ru ru
Ru êm

Đến đây, bài thơ gây một biến ảo bất ngờ. Hóa ra, chú bé không phải là chủ thể phát ra giấc mơ mà chính là sản phẩm của giấc mơ do một chủ thể khác phát ra. Các hình ảnh, sự kiện diễn biến đứt nối, chập chùng làm thỏa mãn những ước mơ vô thức của con người. Nó có cội nguồn ở những gì từng trải, sống qua (vécu) và dự cảm (prévu) của người đang mơ. Cho nên bất ngờ ở chỗ “Chú bé là ai/ Chú bé là tôi/ Con chim là ai - Con chim là tôi/ Giấc mơ là ai/ Giấc mơ là tôi”. Đó là sự gặp gỡ của khát vọng người mà trong thế giới của tiềm thức, vô thức, nó mới được khôi phục một cách êm ái, dịu dàng, bừng ngộ. Khổ cuối bài thơ lạ và toát lên tính triết lý, làm người đọc sững sờ, bất giác hiểu ra sự kỳ diệu bội phần (multiple) của cõi mộng một cách vô tư và trong sáng: “Đêm qua/ Tôi mơ thành tôi/ Tôi mơ thành chim/ Tôi mơ thành giấc mơ”.

Đây là một trong những bài thơ hay, cấu trúc theo khuynh hướng hiện đại của Lâm Thị Mỹ Dạ. Từ thế giới của giấc mơ (monde de rêve) ấy, tác giả nhìn cuộc đời và thiên nhiên đầy đam mê và tiếc nuối. Trước hết, đó là sự tiếc nuối, ám ảnh về thời gian. Thời gian trôi chảy bỏ lại bên sau những sân ga cuộc đời và tuổi trẻ mộng mơ. “Rồi cỏ sẽ xanh trên tên tuổi chúng ta/ Dòng sông sương mù trôi mãi”. Tác giả nhận ra rất rõ bằng cảm giác của chính mình “Đời người rồi qua mau”, “Đời người thoáng chốc tan vào gió”, “Hạnh phúc mong manh hương ổi bay” và con người đang vươn lên để chiến thắng thời gian, để không bị mất hút trong sự tàn bạo của từng giọt thời gian. “Thời gian uống tôi/ Trời ơi/ Thời gian uống tôi” là nỗi sợ hãi có nguyên cớ, có khi do chính mình vô ý gây nên dù “Năm tháng tươi xanh/ Đời đến lúc cỗi già/ Ta mãi thơ ngây/ Thơ ngây nào được nữa!”, bởi vì:

Em đã thành người đàn bà khác
Bông hoa xanh nụ tầm xuân đã khác
Trách chi em, trách chi đời đen bạc
Khi chính mình lắm lúc tự vùi chôn

Điều quan trọng là con người phải biết mơ mộng, cả những lúc ta không còn có mặt trên đời. Chỉ cách đó, con người mới không sợ cái tuổi già sinh học của mình. Bằng cách níu giữ thời gian, con người tự soi vào mình để hiểu những gì cần phải có trong cuộc chạy đua với thời gian.

Gặp mình, tìm mình, tự vấn, tự thú, tự thoại về mình là tiếng nói khẩn thiết trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - như cách thế, nhà thơ mới hiểu hết con người và chính mình. Đó là ý thức tận cùng của cái tôi tự biểu hiện, cái tôi tự soi tỏ: “Một mình lắng, một mình nghe/ Ơ kìa cái cõi - đi - về gang tay!/ Một mình cho hết đêm nay/ Ta ngồi với bóng ôm đầy nhân gian”.

Cả trong hạnh phúc, sẻ chia, hình như trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ bao giờ cũng có sự gián cách nhưng không phải để trách hờn mà là để tự triết lý về nỗi cô đơn và sự kiêu hãnh bình yên như trăng non và lá xanh: “Em chẳng là cây mận của ai/ Em là cây mận của em/ Bám rễ vào đất đai thẳm sâu là nỗi buồn/ Và trời xanh là lòng kiêu hãnh”. Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ giàu ý tứ. Tứ thơ bao giờ cũng lạ, bất ngờ. Hình như không tạo được tứ lạ thì bài thơ vẫn còn trong dự tưởng. Tất cả các bài trong tập đều có tứ, đặc biệt là những bài: Làm gì có biển, Mưa, Người mù cầm đèn, Một mình, Tôi thấy mình, Nhỏ bé tựa búp bê... Trong bài Với biển, tác giả một mình chạm ly với biển, tự nghĩ đó là hành động lãng mạn, điên cuồng, rồi dựng lên chân dung biển để đối thoại, và cuối cùng chấp nhận sự cô độc cao sang trước biển đời giông bão:

Thôi cần chi, ta ném vào đáy thẳm
Chén đời ta
Xoáy lòng biển một vết thương!
Nếu biển đau, mong chi người chia sẻ
Vết thương kia xin trả lại ta nào
Sóng trắng xóa vỗ vào bờ nhè nhẹ
- Ta mặn lắm rồi ngươi chẳng hiểu ta sao?

Hướng về tha nhân hay hướng ngoại là thi pháp thơ của một thời để nói những vấn đề hệ trọng của dân tộc, thời đại. Đó là điều cần thiết và cao cả, qua đó, thơ thực sự tồn tại có ích giữa cộng đồng. Giờ đây, thơ có nhu cầu quay lại chính mình để từ mình nhìn ra nhân thế. Trong con người hiện lên những vui buồn, ân nghĩa nhưng phải là những con người có cuộc đời âm vang, và quan trọng hơn là sự chân thật đến tận cùng với chính họ. Lâm Thị Mỹ Dạ đã làm cuộc hành trình này trong thơ đầy trăn trở và bên sau những câu thơ là dự cảm lớn về khát vọng vĩnh hằng. Nỗi buồn, sự đam luyến và sự cô đơn trong thơ chị là có thật, đồng thời là một lựa chọn nghệ thuật, là quan niệm mỹ học. Tặng nỗi buồn riêng, Nhiều khi, Làm gì có biển... là triết lý về nỗi cô đơn và nỗi buồn biếc trong như ngọc và nước mắt. Ở đó, cái chết là một biểu trưng “Em chết trong nỗi buồn/ Chết như từng giọt sương/ Rơi không thành tiếng”. Bởi vì sự im lìm trong xứ sở của nỗi buồn, người thơ phát hiện ra sự lạnh lùng đến hoang mạc: “Trong xứ sở anh/ Em bị lạc/ Xứ sở hiếm hoi niềm vui/ Khô khắt đến nao lòng” nhưng rồi vẫn chưa hiểu hết vì sao? Trái tim trắng trong, trẻ dại và nụ cười thật tươi với lời thề dâng hiến giờ ở nơi nào?: “Đến như anh người bạn cùng đường/ Vẫn bước ngoài đời em/ Em lạc cả trong anh/ Lạc không tìm ra lối”. Rồi người thơ tự vấn: “Em không còn là em/ Ai đánh mất em/ Hay chính em đánh mất?”

Dù sao, đó vẫn là câu hỏi đã được trả lời, bởi vì nỗi buồn đã đi hết hành trình đau khổ của nó để được gặp lại trong sự hoài nghi cô độc:

Em chết trong nỗi buồn
Chết lặng thầm âm ỉ đau đớn
Trời cho em nụ cười thật tươi
Ai biết sau nụ cười
Giọt nước mắt về đâu?

Nhưng rồi, nhà thơ vẫn không ngừng mơ mộng: “Ước gì anh là dòng sông/ Cho em soi thấy mình như trời cao rộng/ Để tận cùng anh em gặp chính mình”. Đó là nỗi buồn của cánh đồng trái tim đã qua bao mùa bón chăm, gieo vãi, nhưng niềm vui không đi cùng năm tháng để rồi nhà thơ tự “Giật mình/ Hoang vắng/ Bởi tôi đã gieo tôi cằn kiệt không ngờ”. Nhưng đâu đó bên sau những câu thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ vẫn vang lên nỗi khát vọng bởi cuộc đời bao giờ cũng bao dung và độ lượng: “Hãy ngước nhìn trời cao sẽ thấy/ Xuân còn đầy run rẩy, nôn nao”.

Sự quên lãng chính mình, xóa đi chính mình là cách để biết mình hiện hữu, biết mình đang ngơ ngác trước mọi bắt đầu non tơ như lá, bỡ ngỡ như trời xanh mỗi sớm, có lúc nổ tung “Như bất ngờ núi lửa/ Đột ngột sao băng/ Rực rỡ chói lên mạnh mẽ” dù cuối cùng: “Rồi tất cả lại trở về im lặng/ Nỗi im lặng của trăng non và lá xanh”, nhưng ở đó, người thơ kịp nhận ra sự sống không bao giờ xưa cũ: “Ta thành trái mà hồn còn như lá/ Cứ xanh hoài chồi biếc thuở non tơ”.

Vậy là, một khắc khoải trong hy vọng và một ý thức trong hiện sinh hiện lên ám ảnh, khiến nhà thơ không thể tự hờ hững, buông xuôi, khi mình vẫn còn có mặt trong đời. Khi biết “Đời người thoáng chốc tan vào gió”, tác giả càng ý thức “Có phút trên đời thành vô giá” và tự nguyện: “Trái tim đừng lúc nào tĩnh vật/ Mà thiết tha đời như ngọn cây”.

Thật ra, sự đơn độc hay nỗi buồn đều có giá trị về mặt triết mỹ. Bên sau sự đơn độc là sự mong ước có đôi; đi hết nỗi buồn, niềm vui sẽ bừng lên trên gương mặt. Đó là khát vọng nhân bản hiếm hoi và mong manh: “Xin cho một khắc/ Được hóa làm quỳnh/ Nở cùng đơn độc/ Để đời có đôi”.

Đó là cái tôi trang trải, đón đợi, chan hòa và thầm kín của cõi mộng du; là bản giao hưởng của giấc mộng tình thanh khiết đã qua bao nhiêu đêm trắng, bao nhiêu chiều “khát chờ xoáy lốc tim em” cùng người tình hư ảo để thấy “những đám mây ra biển” và chấp nhận “Niềm vui mắc cạn/ Nỗi sầu biển khơi”. Và càng hiểu thêm một sự thật bẽ bàng:

Thôi đành vậy, đành thành sa mạc
Cúi chào anh
Cơn mưa cuối chân trời
Vịnh Hạ Long như người tình hư ảo
Một người yêu không có thật trong đời.

Thế mà, bên sau nỗi cô đơn vẫn là ước khát một chân trời:

Ước gì cầm được cô đơn
Ném thia lia để hóa buồn thành vui

Không tránh khỏi nỗi tiếc nuối, dày vò trước những vết thương do vô ý gây nên để một chiều bất giác nhận ra “Bây giờ ta như vỏ ốc/ Trống rỗng hết bao điều quên nhớ”. Và trước những gặp gỡ bất ngờ, từ sâu thẳm tâm hồn, có một nhu cầu được “đập vỡ mình để đầy ắp”. Đó phải chăng là sự đam mê để chiến thắng những hệ lụy và phiền muộn cõi người trước “những nụ hôn có cánh”“nỗi buồn biếc xanh” sau khi tự mình xóa đi “Từng vết/ từng mảng” như mưa cho đến khi “Chỉ còn/ Một giọt/ Ngơ ngác/ Trên lá xanh”. Đó là kết quả của trạng thái đa phân của những giai điệu nước mắt và nụ cười qua bao tự thú, dày vò: “Còn ai hiểu ta bằng ta/ Còn ai yêu ta bằng ta/ Còn ai ghét ta bằng ta/ Còn ai thương ta bằng ta”. Rồi nhà thơ tự hỏi:

Sao không là đất
Thấm đẫm bao mồ hôi nước mắt
Sao không là trời
Giông bão cuồng say rồi tắt
Sao ta là con người?

Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ là tiếng nói đồng cảm đầy khẩn thiết của bao nhiêu số phận, trong đó, hướng về chung quanh trong sự khai thác cạn kiệt chính mình là cái nhìn nhân ái, là thi pháp tự suy đã trải nghiệm và thay đổi ngôn từ thi ca (changer la langue poétique). Thơ chị kết hợp được chất thực cuộc sống và ngôn ngữ đa dạng, tạo ra những dồn ép, biến ảo, chồng chéo về hình ảnh, đối tượng như huyền thoại, cổ tích nhưng không có dấu vết của sự làm dáng. Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ hồn nhiên, tuân thủ cảm xúc và trái - tim - thi - sĩ - nhạy - cảm mà thành, Tặng nỗi buồn riêng, Đề tặng một giấc mơ, Giấc ngủ mặt trời... là những bài thơ như thế. Tôi chọn một bài để chứng minh cảm nhận của mình.

Giấc ngủ mặt trời là tình sử lung linh của một tâm hồn mê đắm tưởng mong manh mà vững chãi như những tình sử Hy Lạp. Những giả định “Ừ, có thể anh là con ngựa trắng”. “Ừ, có thể anh là mặt trời trong đất”, “Hay ngược lại anh là núi lửa”, “Rồi anh lại dịu hiền như chú ngựa” đều là điều có thể của chàng trai đa cảm, khi lần đầu gặp gỡ đã thẫn thờ “Đứng một mình dưới mảnh trăng non” và lại “Cháy không nguôi, cháy không biết mình còn”, “Cháy đêm đêm dữ dội âm thầm”... Bài thơ diễn ra như cổ tích, một không gian - thời gian quyến rũ đến nao lòng:

Vầng trăng xanh với con ngựa trắng
Đêm bình yên ngựa gặm cỏ trên đồi
Chợt rựng đỏ một mặt trời cháy rát
Tỏa nồng nàn thầm lặng khôn nguôi

Mặt trời cháy rát đã “xoáy một vùng dữ dội” làm cho mọi gần gũi mong manh còn sót cũng không thể kiêu hãnh thờ ơ và bình yên được nữa! Những bí ẩn nồng say đã đánh thức giấc ngủ mặt trời, đánh thức tất cả, dù trạng thái lưỡng phân là điều có thật, nhưng không gì để đảm bảo chàng trai đứng bên này cái vạch cách ngăn đã căng quá mỏng của sự nồng nàn, khao khát hiến dâng: “Bản lĩnh anh là cái vạch cách đôi/ Giữa xoáy lốc mặt trời và bình yên đêm trắng/ Sự hiền dịu là anh, sự dữ dội cũng là anh/ Chú ngựa màu trắng và mặt trời trong đất”. Bài thơ dẫn dắt người đọc phiêu diêu qua một vùng mơ mộng không tưởng, bởi trạng thái kỳ lạ của chú ngựa vừa hiền dịu vừa bất kham, làm cho mọi cao vời cũng đang nghiêng ngả trước ái tình:

Chú ngựa nhớ mặt trời không ngủ được
Ngửi trong đất đai tìm hơi ấm vương còn
Chú ngựa nhớ làm trời đêm xúc động
Giữa cao vời dâng tặng mảnh trăng non

Vậy mà sự ngang tàng của vó ngựa nghìn trùng không thể níu kéo sự lặng im lá cỏ xanh non. Và mặt trời trong lòng đất - đối tượng kiếm tìm của chú ngựa trắng cũng không thể bao dung hơn nữa, dù ngày ngày mặt trời vẫn chói chang rực rỡ, ngựa chẳng biết sao!? Kết thúc bài thơ vẫn là khoảng cách kiêu hãnh, có hấp lực như nam châm:

Ngựa ơi ngựa, mặt trời nằm trong đất
Đang ngủ yên giấc ngủ của người say
Đừng đánh thức sự đam mê cuồng nhiệt
Mặt trời kia chỉ dâng tặng ban ngày

Bài thơ biến ảo, diễn tả cái kỳ diệu của những lối vào tình sử trái ngang như những kho báu ước ao đang lùi xa, xa mãi trong những cánh rừng huyền thoại, nhưng không thể không tin rằng nó vẫn hiện hữu trong những giấc mơ thăm thẳm cõi tình.

*

Với Đề tặng một giấc mơ, Lâm Thị Mỹ Dạ đã làm giàu có và phong phú thêm giọng thơ đầy nữ tính và nhân bản vốn có của mình từ Trái tim sinh nở đến Những bài thơ không năm thángHái tuổi em đầy tay, nhưng giờ đây tính triết lý, nghiệm sinh được tăng cường và sự khẩn thiết nhìn lại mình để thấy bước đi của thời gian và nỗi buồn không thể khác của con người và chính mình. Từ đó, hướng khát vọng thi ca vào những chân trời mơ mộng. Sức hấp dẫn và giá trị của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ nằm ở đường biên của cái tôi và cái ta, giấc mơ và hiện thực, sự tự chôn vùi và sự tự nổ tung, giữa những gì đã qua và những gì sẽ đến, bên cạnh cái hư ảo mong manh ta bắt gặp cái biếc xanh, bỡ ngỡ. Và vì vậy, đó là tiếng nói của sự va chạm, sinh thành. Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ không xa rời thi pháp truyền thống nhưng luôn pháthay để làm giàu có cái phần hiện đại cần thiết của thơ. Thơ chị tự nhiên cứ tưởng thốt ra là thành, không cần sửa chữa nhiều lắm nhưng đó là sự tự nhiên của một tâm hồn đã chín, của những tứ thơ câm lặng, lãng quên được đánh thức sau “Giấc ngủ mặt trời”, lúc mà cái-tôinghệ-sĩ được lên ngôi cùng với những giấc mơ phát sáng màu huyền thoại.

H.T.H
(TCSH58SDB/09-2025)

 

 

Các bài đã đăng