NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Tôi đọc tập thơ song ngữ Trung - Việt “Hà Nội vắng em” của Bành Thế Đoàn với lòng yêu mến và kính trọng.
100 bài thơ được tuyển chọn ở đây giữa mấy ngàn bài thơ anh từng viết trong thời gian công tác ở Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội là phần thầm lặng nhưng ngọt ngào nhất anh dành cho bạn bè Việt Nam và Trung Quốc với tư cách một người cầm bút.
Quan tâm thắt chặt mối quan hệ văn hóa lâu đời giữa hai nước Trung Việt đang phát triển lên trước bối cảnh mới của lịch sử, chúng tôi từng nhiều dịp tiếp xúc và cộng tác với anh và qua anh, liên hệ với sứ quán Trung Quốc cùng nhiều đồng chí, bạn bè Trung Quốc hợp tác mở rộng hành lang văn hóa tốt đẹp của hai dân tộc.
Bây giờ đọc lại thơ anh khi anh rời nhiệm sở ở Việt Nam trở lại Bắc Kinh tôi không khỏi bồi hồi xúc động. Thơ anh cho thấy anh đi nhiều, tiếp xúc nhiều và gửi lại nhiều ân tình gắn bó trên mọi miền của đất nước Việt Nam. Ngay cả những vùng xa xôi, hẻo lánh như Hà Giang, Cao Bằng, Buôn Ma Thuột, Phan Xi Păng… cũng được anh nhiều lần ghi lại; anh có nhiều ấn tượng đẹp với Hạ Long, về một buổi sáng ở Hà Tĩnh, về Đền Hùng, về phiên chợ Đồng Văn…; anh biết cả những món ăn quen thuộc của người Việt: bánh cuốn, chả cá Lã Vọng, bánh khúc bán trong đêm, bánh chưng gói từ xa xưa…; anh vui với thành tích bóng đá Việt Nam, nghệ nhân tài năng làng Quan Họ, những chiếc áo dài quen thuộc…; nhưng có lẽ anh dành nhiều dòng tâm huyết nhất cho Hà Nội, thành phố mà anh gửi trọn tuổi thanh xuân với nhiều kỷ niệm buồn vui… Ta thấy anh còn đếm được những cây liễu cuối cùng trên đất thủ đô Việt Nam (Bài “Liễu”). Anh nhận ra Hà Nội đã có gấp đôi thời gian tồn tại tính từ năm 1010 được thành lập và con số 1010 chính là ngày Hà Nội thoát ách đô hộ của thực dân Pháp (Bài “1010 và 1010”). Những sự trùng hợp lạ lùng đó làm cho lễ thắp hương của người dân Hà Nội trước tượng Lý Thái Tổ năm 2020 đối với anh là sự kiện đáng ghi nhớ. Trong riêng tư anh nhớ đến quán cà phê nhỏ của Hà Nội, bài hát “Em ơi, Hà Nội phố”, một đêm đông nào đó của Hà Nội, một cái chợ lề đường gợi nhớ quê nhà… Người ta luôn thấy thơ anh chi chút, ân tình, giản dị mà đằm thắm, luôn gợi ta tới những điều bình thường nhưng giàu ý nghĩa. Anh không phải người qua đường làm những bài thơ tức cảnh, tức sự, ghi nhận những bắt gặp thoáng qua. Những vùng quê, những sự kiện ở đất nước này là nơi anh sống, anh chia sẻ, anh lớn lên, anh trăn trở, thậm chí có khi mất mát, vì vậy thơ anh cũng như con người anh là một hiện sinh giản dị, chân thực, đem lại nhiều cảm xúc thân thiện trong lòng người đọc.
Nhiều người đã viết về Bác Hồ, nhưng khi viết về Bác, Bành Thế Đoàn vẫn có một cách gửi gắm riêng, đầy thuyết phục. Đó là bài thơ “Một ao nhớ nhung - Thăm nhà sàn Bác Hồ”. Một ao nhớ nhung khi mỗi ngày đến giờ cá ăn mọi người lại vỗ tay gọi cá về. Một ao nhớ nhung khi du khách rời một vùng thiên nhiên yên bình, giản dị như thế đã không quên một người quá cố. Bành Thế Đoàn viết:
Một ao nhớ nhung
Một người gương mẫu,
Chưa bao giờ u sầu.
Khách đã về,
Còn lại một ao nhớ nhung,
Những cánh chim về
Tháp tùng.
Sự yên tĩnh nội tâm,
Sự yên hòa cảnh sắc.
Bóng tối cây bụt mọc, vú sữa
Như cảnh vệ
Gìn giữ
Một ao nhớ nhung.
Tôi nghĩ đây là bài thơ sâu lắng dành nhiều cảm xúc cho vị lãnh tụ vĩ đại đồng thời là nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam.
Là người hoạt động văn hóa, Bành Thế Đoàn hết sức quan tâm và luôn nhạy cảm với mỗi sinh hoạt giao lưu văn hóa hai nước, anh dành nhiều trang viết cho mối giao lưu bền chặt đó. Nhưng theo tôi điều làm anh xúc động nhất là khi anh phát hiện hơn 200 năm trước, đại thi hào của Việt Nam Nguyễn Du, hơn một lần đã đi qua quê hương anh, vùng Ngô Châu, Quảng Tây trung tâm của vùng Thương Ngô lịch sử rộng lớn từng nuôi dưỡng sự tích cái chết của vua Thuấn cùng hai bà phi thần thoại đã được Nguyễn Du ghi lại trong 15 bài tứ tuyệt lấy tên “Thương Ngô trúc chi ca”. (Mẹ Nguyễn Du cũng là người quê hương Quan Họ (Bắc Ninh) với bài hát “Cây trúc xinh” nổi tiếng). Trong những năm tháng tang bồng khi dưới chiếc áo nhà sư, khi đàng hoàng trong vai người đứng đầu sứ đoàn triều Nguyễn đến Bắc Kinh, Nguyễn Du đã đi trên những dòng sông chằng chịt của vùng đất Thương Ngô, Giang Nam đầy mưa bão, ngắm những người cầm điếu dài gọt từ cây trúc tương phi, uống trà đậm, hát giọng Hồ Quảng… Trong bài thơ “Đọc “Trúc chi ca” của Nguyễn Du” ta thấy Bành Thế Đoàn bắt đầu với những câu xúc động:
Không biết ai đã từng ngâm đọc,
Thương Ngô trúc chi ca
Sau khi đọc
Không biết ai đã từng cảm động như tôi
Những gì Nguyễn Du đã nhìn thấy từ hai thế kỷ trước, chính là điều anh muốn thấy hôm nay từ trong tâm khảm của mình. Tiếng nói của nhà thơ Việt Nam với bộ “răng đen” bị dân quê anh lúc đó cười cợt, làm anh biết nhiều hơn những điều mà một nền văn hóa có thể đem lại. Đó là sự gặp gỡ, đó là thời - không của giao thoa văn hóa của các dân tộc. Giao thoa văn hóa giúp các dân tộc lớn lên, làm giàu có của cải tinh thần mỗi sinh mệnh.
Sau những chuyến đi quan trọng đó trên đất Trung Hoa, Nguyễn Du đã đem về Việt Nam cốt truyện độc đáo của Thanh Tâm Tài Nhân và một kho ngôn ngữ Hán Việt mà ông đã trau dồi để viết nên tập thơ dài chữ Nôm nổi tiếng lấy tên “Truyện Kiều”, một kiệt tác văn chương của người Việt.
Giao lưu văn hóa Việt - Trung là một tài sản lớn, một truyền thống văn hóa lớn của hai dân tộc. Tôi hy vọng tập thơ song ngữ “Hà Nội vắng em” của Bành Thế Đoàn là một công trình góp vào tình hữu nghị và trao đổi văn hóa hai nước, một kỷ niệm đẹp của văn chương.
N.K.Đ
BÀNH THẾ ĐOÀN
Một ao nhớ nhung
- Thăm nhà sàn Bác Hồ
Nhà ngói dưới cây bàng,
Lá đỏ, ngói đỏ, tường vàng,
Gợn sóng bóng vàng.
Một trận vỗ tay,
Gọi cá về ăn.
Trong ngày làm việc,
Trong lúc xế chiều.
Trong vườn ao tĩnh lặng.
Một ao nhớ nhung,
Bác Hồ,
Những câu chuyện.
Một ao nhớ nhung,
Thế hệ sau,
Đứng kể chuyện Người,
Yêu đời, yêu trẻ, yêu dân.
Một ao nhớ nhung,
Một người gương mẫu,
Chưa bao giờ u sầu.
Khách đã về,
Còn lại một ao nhớ nhung.
Những cánh chim về,
Tháp tùng.
Sự yên tĩnh nội tâm,
Sự yên hòa cảnh sắc,
Bóng tối cây bụt mọc, vú sữa,
Như cảnh vệ.
Gìn giữ,
Một ao nhớ nhung.
Viếng thăm Văn Miếu
Đứng bên Văn Hồ,
Như thấy sinh viên năm đó,
Rửa bút rửa nghiên,
Trong hồ có cá, chắc học vấn vô biên.
Đứng trước Văn Hồ,
Trước Văn Miếu môn,
Bút lông một đôi,
Viết nên quốc sử ngàn năm.
Dưới Văn Miếu Môn,
Tiếng chân vương triều ngàn năm,
Đã dần đi xa,
Văn hiến vẫn đời đời tiếp nối.
Bên hồ sen,
Đọc sách, nghiên cứu học vấn,
Niềm vui trong lòng,
Không phải làm quan, mà là nước nhà bình yên.
Đằng sau Khuê Văn Các, xung quanh giếng Thiên Quang.
Ngưng tụ ngàn năm,
Tinh hoa trời đất, trí tuệ nhân gian,
Thành bia đá hai hàng.
Qua cổng Đại thành đến điện Đại thành,
Phu Tử tại đây, tứ phối Mạnh, Tăng, Tử, Nhan,
Theo học thành tựu 72 hiền nhân,
Nhiều không, ít không? Không lời.
Khai giảng và bế giảng,
Phu tử đã nghe bao nhiêu lời ca ngợi,
Có danh tác?
Có người đến cúng chứng tỏ tư tưởng vẫn sống.
Đi vào Quốc Tử Giám xây lại thế kỷ 21,
Những học sinh tốt nghiệp đang đi lại,
Báo cáo Chu Tử Văn An, hiếu học,
Phong khí này vẫn y nguyên.
Từ biệt rồi lại đến, đến rồi lại từ biệt,
Đi đi lại lại, thấy thơm thảo trong lòng,
Lòng người ý dân, trôi dài trong năm tháng.
(TCSH442/12-2025)