LÊ KHAI
Tùy bút
Tôi thường nghĩ về sông Gianh quê tôi như một người hùng lưng dài vai rộng, gan góc và từng trải.
Thời bình lặng dòng nó êm, nước trong như gương soi đôi bờ tre phủ. Bãi bát ngát ngô tốt dâu xanh. Những làng mạc trải dài theo sông trù phú. Tìm hiểu sông qua sử sách tôi nhận ra: "Sông Linh Giang bờ Bắc thuộc huyện Bình Chính, bờ phía Nam thuộc huyện Bố Trạch lại có tên là sông Thanh Hà rộng 170 trượng, phát nguyên từ ba nguồn:
- Từ núi Thanh Lãng ở địa giới huyện Hương Sơn.
- Từ núi nguồn Kim Linh chảy xuống qua núi Cao Mại.
- Từ nguồn Sơn An Náu chảy về phía đông qua huyện Minh Chính vào sông La Hà đổ ra bể.
Xét đồ chí, dọc sông toàn hạt núi: Ngọn từ khe Thanh Lãng chảy về đông đến cửa Gianh gồm 163 dặm. Ngọn từ nguồn Kim Linh chảy về phía đông vào sông La Hà 28 dặm. Ngọn từ nguồn Sơn An Náu chảy về phía đông vào sông La Hà gồm 63 dặm. Hồi mới dựng nước lấy sông này làm giới hạn cho nên có tên "Nam Hà" và "Bắc Hà"”(1).
Lại có sách ghi: "Thượng lưu sông này là nước từ Đèo Dài ở huyện Hương Sơn chảy xuống. Nhân dân đội Phúc Nhất, sách Thanh Lãng (người Sách) và xã Kim Lũ huyện Hương Sơn thường đi thuyền xuống mua mắm muối ở chợ ấy. Châu Bắc Bố Chính, dân ở nước làm nghề chài cá, lại quen lên thượng lưu lấy ván đóng thuyền, có phường Đáy, Võng, phường Giáp Ba, phường Cương Gián, Giáp Trung Hòa Hạ. Từ bến các xã phường Lộc Điền, Lũ Đăng đi thuyền theo sông Đại Linh (tức sông Gianh) qua hai xã Văn Lôi, La Hà đến ngã ba là chỗ sông Gianh và sông Son hợp nhau. Sang sông đến bờ phía Nam là bến Cao Lao thuộc Châu Nam Bố Chính."(2).
Về cảnh sắc và cuộc sống dân cư, cách đây trên bốn thế kỷ Dương Văn An đã viết: "Sông Linh Giang ngọn nguồn rất xa, dòng sông rất dài, còn như xóm hoa nội biếc, đất tốt dân đông, chợ nọ, cầu kia vật hoa người quý đều la liệt ở hai bờ Nam Bắc"(3).
Khoảng ba trăm năm sau nhà thơ Nguyễn Khuyến trên đường vào Kinh thi Hội (1865 - 1868) đã qua sông Gianh, làm thơ tức cảnh:
Phàm quy vân tế tận
Sơn nhập hải trung không
Nam Bắc đoạn thiên xích
Vãng lai phi như bồng
Tạm dịch nghĩa xuôi:
Cánh buồm về tận chân mây
Núi nhô ra giữa biển trời
Nam Bắc cách ngàn thước
Qua lại nhanh như cánh cỏ bòng (4)
Tôi nghĩ tình yêu và nỗi nhớ sông cũng tùy cảnh tùy người. Khách thơ Nguyễn Khuyến cảm xúc sông vì cảnh. Nhưng dân địa phương ven bờ Gianh thì nhớ thiên tai lụt bão bên lở bên bồi, nhớ các cuộc phu đài tạp dịch xa xưa những thời chinh chiến. Họ nhớ nhiều về những kỷ niệm qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Có người nhớ giọng hò đưa trên sóng đêm trăng. Có người nhớ thời thơ ấu cùng bạn bè lặn xuống đáy nước trong veo, giương mắt nhìn cát mịn, những hòn sỏi đẹp nhiều màu, nhìn cá bơi, cười với nhau cho bọt nước sủi. Trò chơi ấy gọi là "giương mắt mèo". Nhiều người dù xa quê lâu vẫn nhớ chợ Ba Đồn mỗi tháng ba phiên, thuyền đò mọi ngả tụ về bến sông san sát. Thuyền từ hạ lưu lên có tơ lụa La Hà, vải Lũ Phong, nón Thổ Ngọa, bánh tráng mè xát Lộc Điền, rổ rá nong nia Thọ Đơn, cá mắm Cảnh Dương, Thanh Khê, Hói Hạ. Thuyền ở thượng lưu về có trầu, cau, cam, mít, bưởi bòng và những mảng bè gỗ nứa, mây, nu, mật ong, thuốc lá. Dân xã Lệ Sơn tự hào xã mình đứng đầu danh sách bốn xã danh hương: Sơn - Hà - Cảnh - Thổ(5), bởi từ sông nhìn lên phía trước có hòn Lèn Bảng, phía sau lèn Rồng, đầu làng có động Châu Linh, dọc theo làng là dãy lèn cao 99 chóp. Còn ở xã Phù Kinh các cụ già lại nhớ chuyện dân đẩy đò cho quan phủ nọ. Chuyện rằng: Xưa có ông quan tri phủ hành hạt qua đây, đò mắc cạn. Lính lệ sục vào làng bắt dân đẩy đò. Dân chẳng phải tay vừa. Họ nói với nhau: Phù Kinh mình có công thần triều Lê Hoàng Vĩnh Tộ và con là Vĩnh Dụ. Đền thờ và bia ghi "Song trung miếu bí"(6) chớ cỡ tri phủ thì đã thấm gì mà hoạnh họe dân! Có người trong đám bảo: Này anh em! Ta hò lấy nhịp mà đẩy đò nghe! rồi anh cất cao giọng:
"Dô hò này!
Noốc(7) quan mắc cạn giữa cồn
Đứa mô không đẩy! bú l... người ta... là dô hò này!
Họ cười ran. Quan phủ cũng cười, tưởng rằng trong đám dân phu chắc có tay nào đó nhác không chịu đẩy. Đến khi đò ra giữa dòng sâu, quan nhẩm lại câu hò mới đỏ mặt tía tai hiểu ra dân họ chửi mình. Bởi trên đò chỉ một mình quan ngồi là người không đẩy.
Chuyện dân gian dọc đôi bờ sông này biết cơ man nào mà nói cho hết. Chiều sâu lịch sử sông gắn một thời đất nước phân tranh Trịnh - Nguyễn. Thơ "Độ Linh Giang” của đại thi hào Nguyễn Du, thơ "Đại Linh Giang" của Bùi Dương Lịch còn ghi lại những cảm xúc sâu xa về thời thế.
Với Nguyễn Du thì:
"Bến liền mặt bể xa tầm mắt
Lối vạch lòng sông đã mấy đời.
Lụy cổ ba quan tầng lá rụng
Bãi hoang trăm trận đống xương vùi..."
(Trích dịch thơ chữ Hán)(8)
Với Bùi Dương Lịch thì:
"Nam Bắc cũng đều chung một cõi
Núi sông sao nỡ xẻ đôi tình..."
(Trích dịch thơ chữ Hán)(9)
Lần theo tư liệu dân gian thời ấy, phía bờ bắc Gianh thuộc chúa Trịnh có đồn lính đóng ở làng Phan Long (Ba Đồn). Từ Phan Long đi lên vài chục dặm có thành lũy Tiên Lang do một vị "Tả phủ hiền quận công" phụ trách. Ông quận công này nổi danh dũng cảm, bị quân Nam chặt đứt nửa cổ trong một trận giao tranh, ông vẫn ngồi trên ngựa phi về. Vì vậy ở các xã có vết máu ông nhỏ xuống ở đâu, dân lập đền thờ ông ở đấy. Làng Hòa Ninh hiện còn hai đền thờ "Tả phủ Hiền quận công" là vậy. Phía trên Tiên Lang vài chục dặm có đồn Minh Cầm. Phía trên Minh Cầm đi vào phía tây có đồn Quy Đạt. Ba cái đồn lớn: Phan Long - Minh Cầm - Quy Đạt chung mối quan hệ quân cơ, cùng trao đổi nhau thức ăn vật dụng tại Phan Long nên gọi chợ "Ba Đồn".
"Chợ Đồn bán đắt cau khô
Một đoàn vợ lính rẽ vô thăm chồng..."
(vè dân gian)
Cũng có một số người cho rằng ngay ở Phan Long đã có ba cái đồn nên bài vè dân gian mới có câu:
"Hỏi o tát nước, hỏi chú chăn trâu
Ba đồn quân lính đóng đâu?…"
Phía ngoài Ba Đồn, vùng Trung Thuần có núi Voi, núi Cờ, núi Chuông, núi Lộng. Những tên núi có tích: núi của voi trận ở, núi cắm cờ tập trận, núi có gác chuông ban hiệu lệnh, núi quan sát địa hình. Xa hơn tận phía Đèo Ngang có thành lũy trên núi Hoành Sơn gọi thành ông Ninh, ông Nang vùng Thủy Vực.
Còn ở phía Nam Gianh thuộc Chúa Nguyễn từ ngọn núi sát bờ sông đã có ba trại lính từ núi nhìn xuống (núi Ba Trại). Đây là chưa kể các cơ sở lính tráng dọc theo bờ, kéo dài tận trong xa nối liền lũy Đào Duy Từ, lũy Trường Dục và đầm lầy Võ Xá. Nhiều cụ già trên 90 tuổi sống ở đôi bờ sông Gianh còn nhớ cọc biên giới phân chia Nam Bắc đóng giữa dòng Gianh, cột bằng gỗ lim bị nước bào mòn đen sẫm. Sự phân tranh của giai cấp phong kiến đã ngăn cách dân đôi bờ với bao điều oán hận. Câu chuyện "Hận Linh Giang" kể về Võ tướng Trần Thụ ở bờ Bắc yêu một cô gái bờ Nam, chỉ vì chế độ cát cứ hà khắc mà người con gái phải tự vẫn là chuyện tình đau xót ly kỳ, phản ảnh nỗi oan khuất của nhân dân đôi bờ thời ấy. Cho đến 1786 nghĩa là 186 năm sau kể từ Trịnh Nguyễn phân tranh (1600 - 1786) nhân dân đôi bờ Gianh mới được chứng kiến một vị vua xuất thân áo vải cờ đào cho quân vượt qua Gianh, thống nhất sơn hà: Vua Quang Trung Nguyễn Huệ.
Xin được băng nhanh qua dòng sử của gần thế kỷ sau để lại nói về con sông Gianh dậy sóng Cần Vương chống Pháp. Kinh đô Huế thất thủ (1885), vua Hàm Nghi xuất bôn ra Tân Sở (Quảng Trị) rồi theo đường thượng đến miền tây Tuyên Hóa (Quảng Bình). Vua không đi qua dòng chính sông Gianh. Nhưng trên một nhánh sông nhỏ thượng nguồn là Khe Ve, ông vua trẻ yêu nước ấy mang áo xanh lam, thắt lưng đeo kiếm, có Tôn Thất Thiệp phò tá đã đi thuyền độc mộc để xem địa thế. Còn trên dòng chính sông Gianh từ cửa biển lên, nhân dân theo chiếu Cần Vương náo động cả đôi bờ. Nào quân Lãnh Khuê, Đội Hóa, Lãnh Kỳ, Đề Trực v.v... giáo mác rợp đường. Có người nhớ quân Lãnh Khuê đồn trú tại Rào Nan. Có người nhớ quân Đội Hớn đã đánh giặc vùng Lâm Xuân, Biểu Lệ. Cơ sở quân Cần Vương được nhân dân nhớ nhiều ở phạm vi rộng là quân Đề Trực bao gồm cả quân của lãnh binh Trần Văn Kỳ. Đỗ Trực quê làng Thanh Thủy (nay gọi là xã Tiến Hóa), lãnh binh Trần Văn Kỳ quê làng Lệ Sơn (nay gọi xã Văn Hóa), dân quen gọi Lãnh Trần. Hai làng cách nhau chuyến đò ngang. Hai vị tướng này đều võ nghệ tiếng tăm. Cụ Đề Trực đã từng được vua Tự Đức cử ra Bắc giao tranh thử tài với tướng cờ đen Lưu Vĩnh Phúc. Hai ông Đề Trực và lãnh binh Trần Văn Kỳ hợp quân ở hòn lèn Trúc của làng Thanh Thủy (Tuyên Hóa). Lèn Trúc có hang rộng, sát chợ Cuồi bên mép sông Gianh. Không phải làng có nhiều cây trúc mà chóp lèn nghiêng như đang trúc đổ. Dưới chân lèn có nhiều tảng đá lô nhô như từ trên đỉnh rơi xuống. Dân địa phương quanh vùng thời ấy nhiều người đã từng thấy ông Đề và ông Lãnh đi bên lèn Trúc. Có những chiều tà, họ còn bắt gặp ông Lãnh Kỳ ngồi câu cá phía dưới chân lèn.
Có một câu ca xưa ghi cái đẹp của tình người và khí phách núi sông tụ hội nơi này mà đến nay dân một vùng thuộc hai huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa (Quảng Bình) còn nhớ:
"Ra về nhớ bến chợ Cuồi!
Nhớ hòn Lèn Trúc, nhớ người Kinh Thanh".
Ôi câu ca dân gian mang nỗi nhớ một thời! Nỗi nhớ về Quản Nghĩa, tình vua tôi trong tình yêu đất nước! Dân đôi bờ Gianh từ sau phong trào Cần Vương thất bại càng chịu nhiều nỗi gian truân. Sau địch họa đến thiên tai, nạn nước mặn, hạn hán, mất mùa, thuế nặng, sưu cao, dân tình phiêu bạt. Nguyễn Hàm Ninh, một nhà thơ quê làng Trung Ái tức Trung Thuần (Quảng Trạch) đã nói về tâm trạng mình với quê hương qua một bức thư gửi bạn:
"Cửu hạn ký thái thân
Tam nông kỳ như hà
Vu ngu phi như võng
Dân bệnh cánh thùy ca".
Dịch:
"Hạn hán kéo dài mãi
Nông dân biết tính sao
Cầu cúng không trông cậy
Ai tả nỗi dân đau".(10)
Từ đấy cho đến Cách mạng Tháng 8.1945, tôi không nhớ rõ thời điểm năm nào, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước qua Gianh đã xúc động về sông, viết nên bản nhạc "Hận sông Gianh" với những lời thống thiết:
"Ôi sông Gianh! hồn mi than khóc, hồn mi đau đớn, hồn mi thở than! Vì bao năm chiến tranh bạo tàn, nên nước non đành chịu mờ ám". Ôi! Cái quá khứ của con sông quê sao mà da diết. Sông của đất nước thì nhiều, biết bao con sông từng lừng danh trong sử sách. Bạch Đằng, sông Đuống, sông Lô, sông Hồng, Lam Giang, Thu Bồn, Vàm Cỏ, Hàm Luông v.v... Hay như sông Bến Hải còn vang âm trên thế giới của thời hiện đại. Sông nào chẳng có ngọn nguồn gắn với biến thiên thời cuộc. Nhưng một con sông mà từ thời dựng nước (Hậu Lê) đã lấy làm giới hạn cho "Bắc Hà", "Nam Hà" và một quá trình đi đến thống nhất lại là ranh giới của cuộc giao tranh, thì cũng có thể nói ít có sông nào ghi cuộc biến thiên của đất nước Việt Nam sâu sắc và phong phú như sông Gianh vậy. Tôi nghĩ về sông đâu phải là dòng riêng của một quê hương mà dòng chung dân tộc. Lịch sử đất nước từ lĩnh vực quân sự, chính trị đến văn hóa xã hội chắc sẽ càng được bổ sung phong phú và sinh động khi công trình nghiên cứu về những con sông được coi là của quốc gia. Nghĩ vậy tôi càng thấy tự hào và vinh hạnh về con sông quê mình.
Tôi nghĩ đến chiếc nón bài thơ xứ Huế và mối liên quan của nó với chiếc nón từ quê Thổ Ngọa (Ba Đồn). Chiếc bánh tráng mè xát Chợ Điền bên sông Gianh có liên quan đến bánh tráng vùng Bình Định mà thời Tây Sơn dùng làm lương khô cho quân lính. Cái chợ Ba Đồn đâu có phải ngẫu nhiên thành nơi buôn bán sầm uất của một vùng quê rộng lớn và dần dần thành chợ mang tính quốc gia, có khách hàng trong Nam, ngoài Bắc:
"Phố phường đông đúc đôi bên
Phiên đông cũng đến vài nghìn người ta"(11)
Ở đây, có một câu chuyện văn học lưu truyền cho đến nay. Một bài văn tế sống một người con gái giữa một ngày phiên chợ, Văn tế Cô Diệu. Một cô gái trẻ đẹp, đoan trang, đức hạnh bị cha mẹ ham giàu ép duyên cô lấy một ngư dân già. "Than rằng vàng lộn cùng thau ngọc dầm với đá, kén khách mà không gặp khách, cuộc vuông tròn thêm tủi phận thuyền quyên. Trao duyên chẳng lựa mối duyên, thấy đôi lứa ngán thay người thiên hạ...". Rồi "lúc nghênh hôm về đến bến Bĩnh Giang, ngao ngán thay vợ trẻ, chồng già cảnh trêu khách, cáy, cua cười ra rả..." Một số nho sĩ hồi đó đã dựng đài đọc bài văn tế sống ấy làm cả chợ xôn xao niềm xúc động. Giấy viết hôm ấy bỗng trở nên đắt như vàng. Các cửa hiệu tạp hóa không còn đủ giấy bán cho dân để ghi lại áng văn chương giàu chất trữ tình rót vào tâm can họ. Đôi điều suy nghĩ và ghi nhớ trên thực còn hạn hẹp trong cái vốn quá khứ của một dòng sông xanh trải đôi bờ bát ngát. Rồi từ sau Cách mạng Tháng 8/1945, nơi đây sáng lên sắc nước, bầu trời. Gianh thành con đường sông dẫn đến chiến khu Tuyên Hóa đầu tiên của tỉnh Quảng Bình trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Một tuyến giao thông nhộn nhịp Bắc vào, Nam ra với những tụ điểm đông vui tấp nập Lệ Sơn, Thanh Thủy, Minh Cầm, Chợ Gát, Chợ Còi... Dân Tuyên Hóa xưa kia heo hút núi rừng, đến những ngày này trở nên tưng bừng náo nhiệt.
Một đội quân cảm tử Sông Gianh núp trong lùm dứa dại đã cầm cự chiến đấu với giặc suốt ngày và hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo toàn lực lượng thoát vòng vây giặc. Bài trường ca đầu tiên ấy về Sông Gianh Quảng Bình của nhà thơ Xuân Hoàng đã đi vào sách thơ đất nước. Những thoáng nhớ về sông đến trong tôi hết chống Pháp qua thời chống Mỹ. Một thanh niên chèo đò ngang bến Gianh đã 28 vạn lần đưa đò qua sông dưới bom đạn Mỹ. Một cụ già công giáo thôn Đơn Sa xã Quảng Phúc gần 70 tuổi cứu hầm sập và tiếp đạn bên sông, đã trở thành anh hùng. Một chỉ huy hải quân cho tàu ra giữa dòng sông, thu hút hỏa lực địch về phía mình để cứu hàng chục tàu ẩn nấp đang bị lộ. Một vùng sông bom gào đạn rú vang động xóm thôn, khói tỏa đầy trời! Những người dân đôi bờ sông của Lệ Sơn, Phù Kinh, Kinh Nhuận và các xã phụ cận đã bất chấp mọi hy sinh bơi ra tàu, tiếp lương, tiếp đạn và cứu thương vong. Cho đến khi tàu dần dần chìm xuống, người chỉ huy bị văng khỏi tàu bất tỉnh dạt vào bờ, hoàng hôn tỏa rộng, dân các xóm thôn vẫn còn lặn lội vớt xác tìm người, lo chăm sóc thương binh và chuẩn bị khí thế cho ngày tiếp nối. Tại làng Quảng Thuận ven phà Gianh, nhà cửa, tre, cau, đường sá bị bom xơ xác tiêu điều. Nhưng "xe chưa qua, nhà không tiếc". Bà mẹ Choàng đã tự nguyện đập phá tường nhà mình để lấy gạch lấp hố bom. Nơi đây hàng đoàn xe vận chuyển vẫn vào ẩn nấp dưới hầm hào bên bờ ao, bụi chuối. Vào khoảng chập choạng tối hàng chục bà mẹ và chị em phụ nữ thay phiên nhau đến chỗ xe đậu, giúp những người lái bốc hàng, ngụy trang xe, vá những bao gạo bị thủng, đảm bảo cho hàng vào Nam không hao hụt. Những chị em thanh niên xung phong, tuổi mười tám đôi mươi, bận áo quần màu trắng làm tiêu hướng dẫn các đoàn xe nhấp nhoáng đèn gầm tránh các hố bom để xuống phà. Trong số họ nhiều người chưa một lần yêu đã vì con đường, dòng sông, hy sinh thầm lặng...
Không thể nhắc hết tên người tên xóm, tên làng bởi cuộc sống chiến đấu ở đôi bờ Gianh có vô vàn trí thông minh, lòng dũng cảm và tình yêu đất nước vô bờ bến. Tình của dân địa phương, tình đất nước tụ hội.
Tôi yêu sông quê, hình dung sông như một người hùng là vậy. Trong thiên nhiên Sông Gianh khi hiền lành khi dữ dội, song vẫn lộng gió bốn mùa. Trong lòng người, dù thời cuộc trải những thăng trầm, dòng Gianh vẫn lộng gió thời đại.
L.K.
(TCSH60/02-1994)
-----------------
(1) Sách tập 2 Đại Nam nhất thống chí.
(2) Lê Quý Đôn toàn tập, tập I Phủ biên tạp lục trang 100-101.
(3) Sách Ô Châu cận lục 6 - VĂN HÓA CHÂU Á xuất bản 1961.
(4) Ghi theo báo Quảng Bình số 22-1989.
(5) Làng Lê sơn, La Hà, Cảnh Dương, Thổ Ngọa là 4 xã danh hương.
(6) Đền thờ Hoàng vĩnh Tộ, và bia, ghi theo sách Đại Nam nhất thống chí tập 2 trang 53.
(7) Noốc là thuyền, đò (tiếng địa phương).
(8) Thơ chữ Hán Nguyễn Du - VH 1978, do Nguyễn Văn Bách dịch.
(9) Thơ chữ Hán Bùi Dương Lịch do Nguyễn Văn Bách dịch. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ 18 mở đầu 19 VHVN 1978.
(10) Hợp tuyển Thơ văn Việt Nam 1858 - 1920 - Nhà XB Văn học.
(11) Diễn ca địa lý Quảng Bình của Trần Kinh.