VILIAM KHÂYNÊXEN (Đan Mạch)
Khi Lêô tỉnh giấc, trong tai anh vẫn còn vang lên những lời của ông giáo sĩ giảng đạo.
"Ngày tận thế có thể đến bất cứ lúc nào. Mỗi lần ngủ thiếp đi, là ta nằm trong quyền lực của thần chết, còn khi thức dậy, là thần chết lại giao cho ta một thời hạn nào đó, nhưng dù sao thần chết vẫn luôn luôn theo dõi ta cả ban ngày lẫn ban đêm, cả ban đêm lẫn ban ngày, và mỗi một ngày mới đều có thể trở thành ngày cuối cùng của ta".
Ông giáo sĩ nói bằng một giọng rất hay, hơi khàn khàn, và nói chung gây ấn tượng một con người tháo vát, đã có tuổi. Ông ta để tóc dài, bộ râu bạc trắng như một nhà tiên tri, và có lẽ chính vì thế, ông ta lôi cuốn được con tim của mọi người. Lêô buộc phải công nhận rằng tất cả những điều ông ta nói đều đúng. Bản thân anh cũng vừa ở trong vòng tay thần chết, anh đã biết thế nào là ngày tận thế, bản thân anh đã nếm trải ngày đó và đã ở cõi bên kia.
Sau khi ngoài công viên kết thúc buổi lễ "phục sinh linh hồn" anh lang thang đi chẳng có việc gì trong thành phố mờ khói có những mặt vỉa hè lát gỗ và lúc nào cũng thoang thoảng mùi gỗ cháy. Xuống bến cảng, anh đứng hồi lâu nhìn hình bóng những con tàu lớn. Qua làn khói lơ lững bên trên thành phố khó mà nhìn rõ được gì, ngoài những hình bóng. Sau đó, tình cờ anh gặp một người bạn cùng Iàm việc trong rừng - đó là Giô, người Airơlen, ở trạm khai thác gỗ Đônan. Chỗ ấy hiện còn chưa bị các đám cháy động chạm tới, cho nên Giô đang chuẩn bị ngày hôm sau về đó. Lêô quyết định cùng đi với anh ta. Sau đó họ rẽ vào quán "Ôn Xim-xơn", lúc đầu mỗi người uống một cốc lớn rượu Uyt-ki, sau thêm hai cốc nữa. Rồi khi ấy... - Chết rồi! - Lêô kêu to rồi nhảy phốc ra khỏi giường. Tiền của tôi!...
Chiếc ví ở túi trong áo vét không còn nữa. Nó đã biến mất. Đúng cô ta lấy rồi. Chắc chắn thế, và cô ta đã chuồn đi với tám chục đô la, số tiền cuối cùng của anh.
Anh lập tức cảm thấy chóng mặt, hai mắt tối sầm lại. Đột nhiên, anh hình dung cô ta rất rõ, như thể đang trông thấy cô ta ở bên cạnh. Cùng với anh, cô ta đã đến đây. Tại gian xép áp mái này, và cùng với cô ta, cả tiền cũng biến mất nốt. Anh làm cách nào lên miền Bắc được bây giờ? Thế mà anh lại còn tỏ ra hào phóng, hứa với Giô, cái anh chàng cả đời chẳng có một xu dính túi ấy, là sẽ trả tiền vé cho anh ta.
Anh lại cảm thấy chóng mặt - dường như mọi vật xung quanh đều bao phủ một làn khói - đành phải ngồi xuống giường để khỏi ngã.
- Lêô! - Anh giật mình vì bị bất ngờ. Đó là tiếng cô ta, nghĩa là cô ta chưa đi đâu. Và đây, cô ta đã xuất hiện từ trong lớp sương mù. Đứng ở cửa gian bếp nhỏ, cô ta mỉm cười với anh.
- Anh mệt phải không, Lêô? Hôm qua anh say quá!
- Em có thấy cái ví đựng tám mươi đô la của anh đâu không? - Anh vội hỏi.
- Tất nhiên là có rồi, anh yêu quý! - Cô đáp - Chính anh bảo em cất đi còn gì nữa!
Cô lấy ví ra đưa cho Lêô.
- Chẳng lẽ anh lại có thể nghĩ rằng em lấy hay sao? - Cô cười - Lêô, anh chẳng biết em gì cả.
Quả là anh chưa biết cô thật. Ngay tên cô, anh cũng chưa biết. Có lẽ là Memmi? Không, tất nhiên không phải là Memmi, vì Memmi thường dùng để gọi mẹ yêu quý. Chắc hẳn là Memmi.
Nhưng dù sao, có lẽ đối với anh, cô vẫn cứ là Memmi. Bây giờ anh đã nhớ ra tại sao anh lại gọi cô như thế: cô có đôi mắt màu tro và còn có một cái gì nữa quen thuộc đến nhức nhối lên được... à, phải rồi, giọng nói của cô và vài ba nét gì đó nữa. Memmi!
Cô đun nước dùng cho bữa sáng, nhưng trong bếp, ngoài ấm trà đượm mùi khói đã uống hết ra, không còn thứ gì nữa. Quả thật trong tủ còn hai chai nhưng đều là chai không cả.
- Anh uống bia nhé? - cô hỏi - Hay rượu "gin", hay rượu "vecmut".
- Anh uống "vecmut" - Lêô nói.
- Ngay bây giờ em sẽ chạy xuống dưới kia mua cho anh nửa chai! - Cô nói - được chứ anh?
Anh gật đầu, đưa tiền cho cô. Nhưng cô vừa bước ra, một màn sương mù đen kịt lại quấn lấy anh, và mặc dù đang ngồi, anh vẫn cảm thấy hai chân rã rời. Thật kỳ lạ, bản thân sương mù không hề làm anh khó chịu. Nó phảng phất cái mùi ngòn ngọt của đám cháy rừng. Vậy mà mọi thứ trong thành phố này đều có mùi rừng cháy và bên ngoài cửa sổ bao giờ cũng có khói bay. Mặt trời lúc nào cũng đỏ sẩm như mặt trăng. Điều đó có thể được cảm nhận như một hiện tượng tai họa, nhưng anh thậm chí lại thấy thích. Anh thích như người ta có thể thích một đống lửa trong rừng.
Nhưng kia, cô ta đã đi mua các thứ về. - Cô không mua rượu "vecmút" mà mua rượu "sêri" thuần chất, cô còn mua trà, bánh mì trắng và hạnh đào muối. Tất cả những cái đó làm Lêô tỉnh táo hẳn ra. Rượu anh uống một mình. Cô ta thích uống trà với bánh mì hơn.
Rốt cuộc anh vẫn không dám hỏi cô. Anh thấy như thế là quá đáng. Mà tên anh thì bao giờ cũng cố gắng nhã nhặn với các cô gái. Nếu xử sự không nhã nhặn thì chẳng bao giờ ăn thua gì. Cô gái này tương đối cao, nước da bánh mật, đôi mắt to màu xám hơi lồi nhìn chăm chú. Cũng đôi mắt y như thế...
- Em phải đi đây, Lêô! - cô nói.
- Em đi ngay à? Nhưng tại sao vậy?
- Tại vì em phải về trước mười hai giờ, em chỉ rỗi có buổi sáng thôi.
Anh không gạn hỏi cặn kẽ thêm. Rõ ràng cô ta có làm việc ở đâu đó. Cô nói giọng lơ lớ của người nước ngoài, phát âm "v" gốc lưỡi.
- Quê em ở đâu? - anh hỏi.
- Bố em là Người Mỹ, còn mẹ em sinh ở Pháp. Còn anh là người Sirơlen à?
- Anh ở Ghêbrit, Bắc Âyxtơ, một trong những hòn đảo ở phía Tây.
Anh nắm lấy tay cô rồi mỉm cười nói:
- Hai chúng ta cứ như từ mặt trăng rơi xuống ấy phải không em? Thì cũng cần phải rơi xuống một nơi nào chứ. Nhưng tại sao chúng ta lại rơi đúng xuống đây, xuống Vancuve này nhỉ?
Cô ta có vẻ suy nghĩ, mắt chăm chăm nhìn thẳng tới một nơi nào đó ở phía trước. Trời, cái nhìn chăm chú của đôi mắt màu tro ấy mới quen thuộc làm sao! Anh kéo cô gái lại đặt cô ngồi trên đùi gối anh.
- Memmi!
- Hôm qua, lúc nào anh cũng gọi em như vậy! - Cô nói - tại sao thế, Lêô?
Anh âu yếm vuốt má cô, hôn cô lúc đầu vào mắt bên này, rồi sau vào mắt bên kia.
- Đêm qua anh bên em phải không? - Anh thì thầm hỏi.
- Anh ngủ, - cô trả lời.
- Anh bên em phải không? - Anh gặng hỏi - Em biết anh muốn nói tới điều gì rồi đấy.
Cô lắc lắc đầu.
- Lêô, em phải đi đây.
- Đã mười một giờ đâu em! - Anh nói và sôi nổi kéo cô lại - Memmi! Em đừng đi!
- Anh đã kể em nghe biết bao nhiêu là chuyện! - Cô vừa vuốt tóc anh vừa nói. - Anh nhớ không? Anh kể rằng anh đã bị ốm nặng và suýt chết! Anh ốm bệnh gì thế, Lêô?
- Bệnh thương hàn. Ừ, đúng là anh suýt chết thật.
- Hôm qua anh còn nhắc đi nhắc lại mãi rằng: "Bây giờ, ngày tận cùng thế giới đã lùi vào dĩ vãng!" Tại sao anh lại nói thế? Và tại sao anh lại gọi em là Memmi?
Anh cười vang.
- Ồ, Memmi... đưa anh cái áo vét đã, rồi anh sẽ nói!
Từ ngăn túi bên trong, anh lấy ra vài tờ giấy nhàu nát, rồi anh tìm trong đó một tấm ảnh đưa cho cô. Tấm ảnh cỡ nhỏ, đã khá cũ kỹ và bạc phếch.
- Mẹ anh đấy! - Anh nói - Em nhìn xem, mẹ anh có giống em không?
- Giống quá.
- Thế thật ra tên em là gì?
- Tên em là Pôlône.
- Em bao nhiêu tuổi?
- Mười chín. Thế còn anh?
- Anh hai mươi mốt.
- Mới có hai mươi mốt! Thế mà anh biết không... mà thôi, chuyện vớ vẩn ấy mà!
- Không, nhất định em phải nói! Chắc tại tóc anh chứ gì... Phải rồi, tóc anh có những chỗ bạc. Trước kia anh không có tóc bạc đâu. Sau trận ốm, tóc anh mới bạc đấy.
- Ôi, Pauvre ami (1) - cô dịu dàng nói, mắt nhắm lại, và sau đó một phút giọng cô đã rất ngái ngủ.
- Lêô!
- Gì thế em?
- Mẹ anh còn sống không?
- Không, mẹ anh mất khi bà mới có hai mươi ba tuổi.
- Ra thế... Nghĩa là anh hoàn toàn không còn nhớ mẹ nữa.
- Không nhớ ấy à? Không có gì trên đời này anh lại nhớ rõ như mẹ anh. Hồi mẹ anh mất, anh lên sáu tuổi. Và anh rất nhớ đôi mắt màu tro của mẹ anh giống y hệt mắt em - Anh thoáng mỉm cười. - Và anh còn nhớ tấm khăn màu xám rất đẹp mẹ anh vẫn quàng vào những ngày chủ nhật nữa, tấm khăn ấy...
Anh định nói thêm điều gì, nhưng lại thôi, Dù sao thì cô ta cũng không thể nào hiểu được điều đó.
Pôlône vẫn ngồi, mắt đăm đăm nhìn anh.
- Lêô, - bất ngờ cô hỏi, anh bảo anh làm việc như một Head Fallev(2), nhưng em không biết thế là thế nào. Có liên quan gì đến việc giết chóc không anh?
- Ồ, không liên quan gì đến chuyện giết chóc đâu. Anh là công nhân đốn gỗ. Anh đi trong rừng với hai người giúp việc nữa và bảo họ phải đốn những cây nào và đốn bằng cách nào. Nhưng bây giờ anh không còn là công nhân đốn gỗ nữa rồi. Lúc này, anh chưa làm gì cả. Nhưng có thể anh sẽ lại làm công nhân đốn gỗ. Mà thôi, nói thế đủ rồi. Tốt nhất là em hãy kể anh nghe đôi chút về em đi, Pôlône!
- Không, em không kể đâu! - Cô trả lời ngắn gọn - Hôm nay, em chẳng muốn là chính bản thân em chút nào.
Rồi khe khẽ cười, cô thì thầm: - Em chỉ muốn là Memmi của anh thôi. Được không?
- Tất nhiên là được rồi, em là Memmi của anh! Anh nói và chạm đôi môi vào tóc cô. Tóc cô thoang thoảng mùi khói, như tất cả mọi thứ trong thành phố này, nhắc anh nhớ tới đám cháy rừng, nhớ tới cảnh nghỉ ngơi bên đống lửa...
- Em phải đi đây, cô nói.
Cả hai người thở dài một tiếng và im lặng nhìn nhau.
- Anh phải nói với em đôi điều, - cuối cùng Lêô ngập ngừng, lúng túng lên tiếng. - Bảy đô la - được không em? Không ít chứ? Mà thôi, em có thể lấy bao nhiêu tùy em!
Cô quay đi, trong mắt cô thoáng một ánh gần như căm thù.
- Này anh chàng kia, anh có gánh lấy quá nhiều trách nhiệm về phần anh không đấy? - Cô nói với vẻ khinh bỉ.
Anh bỗng cảm thấy mình nhỏ mọn không thể tưởng tượng nổi. Và dù sao, anh cũng vẫn lúng búng thanh minh vài lời. Cô cười to khi nhìn vẻ bối rối của anh.
Trước tấm gương nhỏ trong bếp, cô bắt đầu sửa lại mái tóc.
- Lêô! - cô nói, không quay mặt lại. - Anh biết không, anh là một anh chàng ngốc nghếch, ngốc nghếch lắm. Cố nhiên anh không thể biết rằng em là con gái một nhà giao dịch tàu biển, còn mẹ em là một ngôi sao màn bạc nổi tiếng! Xuxanna Pecsimxcaia! Anh chưa bao giờ nghe nói về Xuxanna Pecsimxcaia sao?
- Tất nhiên, anh có nghe chứ. - Xuxanna Pecsimxcaia hả em? - anh nhắc lại - Thật không?
- Vậy mà anh lại nghĩ ràng em thuộc loại con gái vào trong nhà với bất kỳ người nào! Có phải thế không? Em chỉ đi với anh thôi, mà như vậy còn vì anh rất snuggy(3)… Đúng, anh Snuggy lắm! Anh gọi em là Memmi, - thế là em không cưỡng nổi. Em xử sự ngốc nghếch quá phải không Lêô?
Đột nhiên, cô quay lại và quả quyết tiến về phía anh.
- Hê lô, Lêô! - cô nói, cố tránh cái nhìn của anh. Sau đó cô lại gần anh thêm và áp chặt má vào ngực anh. Anh khẽ nâng đầu cô lên và với một vẻ âu yếm buồn rầu, anh hôn cô.
- Anh rất cần, rất cần gặp em lần nữa! - anh nói - Bao giờ anh gặp được em, Pôlône? Tối nay được không?
Cô im lặng nhìn sang phía khác.
- Nhất định tối nay nhé, Pôlône!- anh khẩn khoản nói tiếp. - Mai anh đi rồi. Anh phải quay trở lại khu lâm nghiệp. Anh sẽ cố kiếm một ít tiền. Em có hiểu anh muốn nói gì không đấy?
Cô gật đầu.
- Vậy tối nay nhé, được không Pôlône? Anh yêu cầu em đấy! Khẩn khoản yêu cầu em đấy! Bảy giờ được không? Ở đây nhé?
- Chín giờ em sẽ đến. Nhưng tất nhiên em sẽ chỉ là Memmi của anh thôi đấy. Anh có hứa thế không?
- Được rồi. Em sẽ là Memmi của anh.
- Au revoir - A bientôt(4).
Lêô uống mấy viên thuốc ông bác sĩ cho, chiêu thuốc bằng rượu sari. Sau đó anh lại nằm xuống giường, gối đầu lên hai tay.
Trong căn gác xép này của anh rất yên tĩnh. Anh nghe thấy trong tường có tiếng những con sâu của loài bọ cánh cứng đang lục cục, âm thanh ấy khiến anh nhớ tới tiếng rìu đẵn gỗ ở xa xa. Có thể ai đó ở trong rừng đẽo gỗ làm một ngôi nhà cho mình. Âm thanh giống như thế còn do những con chim gõ kiến đục cây tạo ra. Lêô cảm thấy hết sức mệt mỏi và vô cùng hạnh phúc. Đầu óc anh không nghĩ một điều gì. Ngày tận thế là một chuyện kỳ lạ, nhưng bây giờ nó đã ở phía sau. Mặc dù cho tới nay, anh vẫn không thể tin được rằng tất cả mọi việc xảy ra với anh đều đã qua và giờ đây anh đang ở cõi bên này, nơi anh sẽ phải bắt đầu lại mọi chuyện từ đầu. Tất nhiên, cũng có thể ngày tận thế vẫn chưa hoàn toàn kết thúc. Cho tới nay, thỉnh thoảng anh vẫn còn bị những cơn chóng mặt, mặc dù so với trước có thưa hơn nhiều. Sự sống đang quay trở lại với anh một cách chậm chạp, nhưng vững chắc. Đôi khi, anh bỗng cảm thấy sảng khoái và khỏe mạnh khác thường, vào những giây phút như thế anh muốn được dùng ngay sức lực vào một công việc gì đó, chẳng hạn như xách một vật nặng lên.
Thật tuyệt vời biết bao được quay trở về với cuộc sống!
Trong tâm trí anh bỗng hiện lên hình ảnh một bến bờ đầy những đá chói chang ánh nắng và lộng gió.
Biển xanh bao la trải rộng về phía tây và trên nền xanh đó hiện rõ những bông hoa màu sáng bập bềnh, trong gió mặn - hoa mao lương và hoa cẩm chướng đồng nội, hoa cúc và hoa hình sao. Liền đó, cách biển không xa, có một vườn rau nhỏ với những luống mùi tây sát nhau, những chiếc lá xinh xắn nhẹ nhàng màu xanh lục nhạt của mùi tây mỏng như mạng nhện.
Hồi ấy, anh lên năm, sáu tuổi, anh thả những con tàu nhỏ xuống chỗ dòng suối chảy ra. Trên trời có tiếng quang quác lo sợ của những con hải âu tinh nghịch. Trong bóng râm của một khối đá cheo leo, mé trên bờ có một người phụ nữ trẻ tuổi đang ngồi. Bà hơn hai mươi tuổi, nước da đen giòn. Có lẽ bà cũng không có một sắc đẹp đặc biệt gì, nhưng bà là người phụ nữ tuyệt vời và phi thường nhất trên thế gian này. Bà có thể ngồi hàng giờ, không rời mắt khỏi biển cả, và chỉ khép mí mắt lại những khi đã mệt. Nhưng khi người phụ nữ nhìn anh, mắt bà bao giờ cũng hiền hậu và âu yếm. Cặp mắt màu tro, hơi lồi, vai bà khoác tấm khăn màu tro, cùng màu với đôi mắt.
Đó là Memmi, mẹ yêu quý. Bây giờ Memmi đã trở về. Đã ở đây, ở trong gian gác xép này của anh, sau khi kết thúc ngày tận thế. Memmi sinh ra ở đất nước phía bên kia biển cả mênh mông, và sống ở thành phố mờ khói này, giữa những hương vị ngòn ngọt giống như mùi đống lửa đầy khói ở ngoài rừng. Anh yêu mùi khói ấy. Anh yêu quán "Onximxơn", nơi anh tìm lại được Memmi. Anh yêu cả trái đất này với những biển cả và những rừng cây bao la bát ngát.
Đột nhiên anh cảm thấy rất buồn ngủ, nhưng trước khi thiếp đi, anh nghĩ: có lẽ đây là cái chết rồi đây. Mình không sợ chết. Nó cũng như một khu rừng lớn, như một vùng biển rộng. Và bên kia biển còn có một đất nước, và ở đất nước đó có Memmi. Em là món quà số phận tặng anh.
Khi tỉnh giấc, cảm thấy đã khỏe ra chút ít sau giấc ngủ, anh nhớ lại ngay những điều anh nghĩ trước khi thiếp đi: "Em là món quà số phận tặng anh..."
Anh đứng lên, cạo râu trước tấm gương nhỏ trong bếp. Sau đó anh cởi quần áo và bắt đầu rửa mặt, lau người. Nước lạnh đem lại cho anh cảm giác nhẹ nhõm và mát mẻ biết bao! Anh mở cửa sổ rồi vừa mặc quần áo, vừa khoan khoái hít lấy làn khói ngòn ngọt. Mặt trời giống như mặt trăng bị đem nướng, ở phía dưới là thành phố trải rộng, và trong đó có em Pôlône, em yêu của anh, có thể cha em chỉ là một nhà giao dịch tàu biển thường, còn mẹ em chỉ hát trong ban đồng ca hoặc làm nghề ủi quần áo. Điều đó thì có ý nghĩa gì? Dù sao em cũng vẫn là Memmi của anh, em là món quà số phận tặng anh.
Anh lấy mũ rồi nhẹ nhõm bước ra phố. Thành phố này thật đáng yêu, mặc dù có nhiều khói. Dễ chịu biết mấy được đi trong làn khói nhẹ, trên những mặt vỉa hè lát gỗ khiến tiếng chân ta bước dịu hẳn lại. Đâu đâu cũng chỉ thấy những bóng, những đường viền, những hình mờ ảo và vì thế, ta thường gặp những chuyện bất ngờ đột ngột. Những cây dương xỉ rừng to tướng mọc ở bất cứ góc nào, xó nào có bóng râm. Từ khu đường sắt kề ga vọng lại những tiếng ầm ĩ - nào các đầu tàu rúc còi, nào các chuông báo hiệu rung leng keng. Từ khoang hầm lớn ủ men của nhà máy bia phụt ra luồng hơi dày đặc thơm phức mùi hoa thảo, mùi cỏ Bắc Mỹ, và mùi bánh mì mới nướng. Từ ngoài cảng vang tới tiếng ken két của máy tời hơi nước, tiếng còi báo và những tiếng còi tàu trầm trầm. Khi những con tàu thủy rúc còi náo động, là lúc sẽ có những thế giới này mất đi và thay vào đó sẽ xuất hiện những thế giới khác. Chắc hẳn trong ngày phán xử, những con tàu lớn sẽ đứng yên và rúc còi báo tin sự diệt vong thế giới cũ. Anh nhớ lại rằng khi nằm trong bệnh viện, anh nghe thấy tiếng vọng của những còi tàu xa xăm, những tiếng ấy trầm đục và sâu như vực thẳm, đó là những âm thanh cuối cùng trên thế giới, và cũng là những âm thanh đầu tiên. Anh yêu những âm thanh ấy. Anh yêu thành phố này, nơi đã đưa trả lại cuộc sống cho anh. Anh yêu cô gái Pôlône. Thật hạnh phúc biết bao là tối nay anh sẽ lại gặp cô.
Trong quán "Onximxơn" tất cả các bàn đều đã có người ngồi, nhưng anh vẫn tìm được một chỗ bên chiếc bàn chung, giữa những thủy thủ đang ăn ngon lành món ragu và uống bia.
- Pôlône! - Anh sung sướng thầm nhắc đi nhắc lại. Trời, anh yêu cô quá chừng! Anh muốn mua hoa cho cô - những bông cúc những bông cẩm chướng đỏ và trắng! Ý nghĩ ấy choán hết tâm trí anh. Anh phải mua hoa trước khi các cửa hàng đóng cửa mới được.
Anh không ăn hết đến nửa đĩa Ragu. Ai thiết ăn uống gì khi đang yêu, khi vừa nếm trải ngày tận thế. Trong tâm trạng đó, người ta chỉ có thể yêu và mua hoa cho người yêu mà thôi.
Đêm hôm ấy hai người nằm nói chuyện với nhau gần như tới tận sáng. Trong phòng tối đen vì điện bị hỏng. Bóng tối thoang thoảng làn hơi mát mẻ và hương thơm đậm đà của những bông hoa cắm trong chiếc lọ đặt trên bệ cửa sổ. Hương thơm của hoa cẩm chướng quyện với mùi khói ở tóc Pôlône. Chốc chốc, anh lại đánh diêm, - anh cần lúc nào cũng nhìn thấy Pôlône. Cô không phải là trang tuyệt sắc. Nhưng đối với anh, cô đáng quý hơn rất nhiều. Bởi vì cô là Memmi, món quà số phận tặng anh. Và anh yêu cô.
Cô kể cho anh nghe về bản thân cô. Câu chuyện cuộc đời cô thật là ly kỳ như một chuyện trong "San đimêghêdin"(5). Cha cô từ hồi còn nhỏ đã đi bán báo, sau đó vào làm ở văn phòng một hãng giao dịch tàu biển cỡ lớn, ở đó ông lên dần tới địa vị giám đốc hãng, thuộc quyền sở hữu của ông có con tàu lớn "Phutdiama", một trong những con tàu chạy tuyến Nhật Bản. Cha cô là người vô cùng nghiêm khắc, một bạo chúa thực sự trong gia đình. Ông không cho phép mẹ Pôlône trở thành tài tử điện ảnh. Ông đánh đập vợ và con gái. Cuối cùng, hai mẹ con cô phải bỏ ông trốn đi. Hai mẹ con cô hoàn toàn có thể không cần đến tiền của ông. Vì mẹ cô là một tài năng thực sự. Nhưng mẹ cô đột ngột qua đời khi vừa mới bước vào con đường sự nghiệp của mình. Tuy nhiên, Pôlône dù sao cũng vẫn không chết. Cô vào làm nhân viên tốc ký ở một hãng lâm nghiệp lớn. Nhiều người hỏi cô làm vợ, nhưng rốt cuộc cô vẫn không dám đi lấy chồng. Cô sợ sẽ gặp phải một tay bạo chúa như cha cô...
- Thế là thế nào, Pôlône? - Lêô nói. Thì ra em quá cao thượng, đến nỗi không thể là Memmi của anh hay sao? Chúng ta biết làm thế nào bây giờ?
Cô không trả lời, mà chỉ nép chặt vào anh hơn.
- Lêô, - bỗng cô nói và gỡ tay anh ra. - Anh hãy kể em nghe chuyện gì về anh đi!
- Được thôi, anh sẵn sàng kể. Nhưng anh biết kể chuyện gì bây giờ nhỉ? Nói thật ra, đời anh chẳng có gì đáng đem ra kể. Cha mẹ anh là những người bình thường, sống ở một đất nước yên ổn, không giàu có gì. Bản thân anh thì không trốn khỏi nhà, anh chỉ lên đường xem có những gì ở bên kia biển thôi. Buồn cười thật, có phải không? Và anh không bao giờ mơ ước được nổi tiếng hoặc giàu sang. Nói chung, anh bao giờ cũng hài lòng với những gì anh có, mặc dù anh có cũng không nhiều nhặn gì lắm. Hai lần anh bị bọn chủ trại keo kiệt, khó chịu lừa gạt - chúng ăn quỵt mất số tiền anh kiếm ra được, nhưng chuyện đó có lẽ cũng chẳng đáng nói. Có một lần, anh bị hai gã đeo mặt nạ tấn công chúng tưởng ví anh căng tiền lắm. Nhưng chúng chưng hửng chẳng thấy gì. Sau đó, có lần - chuyện này thì có lẽ có thể kể được - ở ngoài đồng cỏ, một con mèo rất đẹp ở trại bị một con beccut tấn công, con beccut bình tĩnh ăn thịt con mèo ở ngay trước nhà. Mặc dù có lẽ cả trong câu chuyện đó cũng chẳng có gì đặc biệt hấp dẫn...
Cuối cùng là cuộc sống của anh ở trong rừng. Cuộc sống ấy quả là thoải mái. Thậm chí anh cảm thấy ngượng nghịu khi thú thật rằng anh thích cuộc sống trong rừng đến nỗi anh đâm ra yêu nó, mặc dù thỉnh thoảng cũng gay go, nhất là mùa đông, khi tuyết rơi nhiều, và mọi người hàng ngày phải dùng rìu, dùng xẻng để dọn đường mà đi. Có lần, trời rét bốn mươi độ âm, tất cả các ngón chân phải của anh bị tê cóng, anh phải xát mãi suốt ba tiếng đồng hồ. Năm ấy, mùa đông rất khắc nghiệt. Anh phải ăn uống ngay trong rừng, vì về trạm khá xa. Những hôm rét nhất, anh không sao dùng nĩa để ăn được, vì nĩa lạnh quá cứ dính vào môi. Những hôm ấy, anh phải dùng đũa bằng cành cây hoặc ăn bốc.
Những mùa hè ở trong rừng thì tuyệt diệu, vả lại, không phải chỉ riêng một mình anh thích rừng. Những người khác cũng nhớ rừng da diết. Vào ngày chủ nhật, các công nhân đốn gỗ thường ngồi nhà chơi bài ăn tiền, tiền để ngay ở trên bàn, có khi tới vài trăm đô-la. Còn anh thì những lúc rỗi rãi, anh thường trèo lên một cây thông cao, từ đó có thể nhìn thấy phong cảnh kỳ diệu. Ngồi trên ngọn cây thích không thể tưởng tượng nổi. Nhất là khi nhìn thấy được biển cả ở xa xa. Tất cả những điều đó là ở khu lâm nghiệp mà bây giờ anh sắp quay trở lại. Không gì có thể so sánh với biển được! Không gì có thể sánh với rừng và với biển được!
- Lêô, khi ngồi trên ngọn thông vào những ngày chủ nhật, anh nghĩ gì thế? Anh nghĩ tới các cô gái phải không?
- Anh cũng nghĩ cả về các cô gái nữa. Anh nghĩ rằng đến một lúc đó anh sẽ gặp một cô gái...
- Thế anh còn chưa gặp một cô nào à?
- Anh gặp nhiều rồi. Chỉ có điều bao giờ anh cũng gặp những cô chưa hợp ý anh. Nhưng khi anh trở về rừng...
- Thì sao hả anh, Lêô?
- Thì anh lại mơ ước sẽ gặp một cô gái - một cô gái hết sức đặc biệt, dịu dàng, hiền hậu... Anh bao giờ cũng mơ ước gặp được một cô gái như Memmi!
- Lêô! Pôlône nói và hơi thở của cô nóng hổi trên mắt anh. Em có thể nghiến nát anh được đấy, anh có biết thế không? Em có thể bẻ gãy hết tất cả xương của anh được đấy! Thậm chí em có thể giết chết anh đấy!
- Tại sao vậy, Pôlône?
- Tại vì anh ngốc kinh khủng! Anh không biết điều đó sao?
Anh ngỡ ngàng bật cười, không biết Pôlône nói đùa hay nói thật. Được thôi, rất có thể là anh ngốc. Nhưng nói cho cùng, điều đó thì có ý nghĩa gì? Chẳng hơn gì, câu chuyện cô kể rằng cô làm nhân viên tốc ký. Đối với anh, điều đó hoàn toàn không đáng quan tâm.
- Em giận đấy à, Pôlône? - Anh rụt rè hỏi. - Đừng giận anh - Mà tại sao em lại im lặng Pôlône?
Anh định đánh diêm để xem cô giận anh thật hay đùa - Nhưng cô khéo léo hất bao diêm ra khỏi tay anh.
- Anh! Anh yêu em đi! - Cô nói khe khẽ, nhưng như ra lệnh vậy.
- Anh yêu em, Pôlône! - anh thì thầm - Em có nghe thấy không?
Cô lẳng lặng áp chặt vào môi anh. Anh cảm thấy hai bàn tay cô run rẩy trong tay anh. Cô không phải là Memmi của anh nữa, cô là Pôlône, cô gái của anh. Một cô gái tuyệt vời. Nhưng dù sao kể cũng buồn, vì cô chỉ là một cô gái thôi, không hơn.
Và đây, không gian yên tĩnh đã bao trùm họ. Cả hai người im lặng. Chỉ có tiếng mấy con mọt lục cục trong tường và ở một nơi nào đó xa xăm có tiếng còi tàu thủy vang lên nghe thật cô quạnh.
Ngượng ngùng mỉm cười trong bóng tối, anh thì thầm:
- Pôlône! Bây giờ em có thể lại trở thành Memmi của anh được không?
- Gớm, lại thế nữa, - cô cắt ngang lời anh và ngồi dậy - Lêô, anh đánh diêm đi, để em có thể trông thấy anh.
Anh đánh diêm. Pôlône chăm chú nhìn vào mặt anh. Hai má cô hồng rực, mắt cô ươn ướt. Cô lập tức trẻ ra đến vài tuổi. Cặp mắt màu tro của cô đẹp biết chừng nào!
Dù sao anh vẫn không thể ghìm lại không kể cho cô nghe về tấm khăn...
- Pôlône, - anh nói - Anh đã kể với em rằng mẹ anh có một tấm khăn mỏng màu xám thường đem dùng vào ngày chủ nhật. Tấm khăn ấy màu rất giống màu mắt mẹ anh và mắt em. Anh bao giờ cũng cảm thấy tấm khăn đó tỏa ra mùi nhà thờ.
Trong giây lát anh ngừng lời, rồi anh thì thầm nói thêm:
- Một vật rất hay, phải không em, Pôlône? Trong một thời gian dài, anh nghĩ rằng tâm hồn con người cũng có nét gì giống như tấm khăn đó! Có lẽ vì hai từ ấy tạo nên những âm thanh tương tự như nhau. Nhưng nói đúng hơn, vấn đề là ở đôi mắt màu tro của mẹ anh…
Lại yên tĩnh. Lần này, người phá vỡ không khí yên tĩnh ấy là Pôlône. Cô thở một hơi dài rồi nói:
- Lêô! Em muốn biết quả thật anh có tin vào tất cả những điều vớ vẩn em kể anh nghe ban nãy không?
- Thế thì em hãy kể khác đi, - anh âu yếm nói.
- Nếu em kể sự thật, anh có thể ghét em, - cô đáp lại, - Nhưng dù sao em vẫn cứ kể...
Pôlône bắt đầu câu chuyện của cô. Bây giờ rõ ràng mỗi lời của cô đều là sự thật một trăm phần trăm. Chuyện của cô ngắn thôi, nó mở đầu rất tốt đẹp, nhưng kết thúc bằng một cảm giác bàng hoàng u uất. Pôlône sinh ra ở Grixkin, gần Kenghêri, nơi bố mẹ cô có một trang trại nhỏ. Cô là con gái duy nhất và là út trong số bốn anh em. Gia đình đầm ấm của cô sống hạnh phúc ở vùng thảo nguyên cho tới khi Pôlône lên mười một tuổi, sau đó tiếp đến mười lăm, hai năm mất mùa, cho nên bố cô, một người Ba Lan, cùng với người anh lớn mười sáu tuổi của cô phải lên đường ra thành phố tìm việc làm. Bố cô và anh cô không trở về nhà nữa, vì cả hai bị chết trong một tai nạn đường sắt khủng khiếp ở gần thác nước Catarac Rive.
Cuộc sống hạnh phúc chấm dứt. Mẹ của Pôlône, một phụ nữ ba mươi ba tuổi, con gái một người Pháp ở Mônrêan, tái giá với một người họ hàng tên là Acnô trẻ hơn bảy tuổi. Đó là một kẻ rỗng tuếch, một tên phiêu lưu và một tay cờ bạc, hàng tuần lễ hắn không ló mặt ở trại, hắn tiêu cả đống tiền vào chuyện rượu chè và bài bạc. Một lần, trong cơn say, hắn cưỡng hiếp Pôlône và đánh què anh cô là Luit, lúc ấy xông vào định cứu em gái. Mẹ cô không sao chịu đựng nổi sự việc xảy ra, bà héo mòn vì đau khổ, buồn rầu, và ba năm sau khi lấy Acnô bà qua đời.
Chẳng bao lâu sau khi mẹ chết, Pôlône và Luit rời trang trại. Còn Acnô thì cưới một cô gái trẻ ở Xiet và cho tới nay vẫn ở đó. Luit xin làm thuê trên tàu, còn Pôlône ở lại Vancuve.
- Sau đó chuyện gì đã xảy ra với em? Lêô hỏi.
- Không có chuyện gì cả! - cô nói - Anh đánh diêm lên, để em có thể trông thấy được anh, anh Lêô!
Anh đánh diêm lên: Cặp mắt Pôlône đầy vẻ lo âu, hai má cô nhợt nhạt hẳn đi, hình như cô buồn nôn. Ở ngay khóe miệng cô hằn rõ vài nếp nhăn nhỏ mà lúc trước anh không nhận thấy. Cô mỉm cười và thổi tắt diêm đi.
- Pôlône! - anh dịu dàng nói - Em có thể kể cho anh nghe tất cả mọi chuyện được. Vì thế, anh sẽ chỉ càng yêu em hơn thôi.
Cô hơi nhỏm người trên gối, tiếp tục nói rất khẽ, như thể sợ có ai nghe trộm.
- Anh biết không. Lêô, em đã phạm một tội ác lớn! Ở đây, ở Vancuve này, em đã gặp một thủy thủ trẻ. Chúng em sống với nhau một thời gian. Em yêu anh ấy. Sau đó có một chuyện xảy ra em phải trở thành một người mẹ anh ạ! Anh có nghe lời nói không đấy. Lêô?
- Anh xiết chặt tay cô.
- Anh vẫn nghe đây. Rồi sao nữa?
- Rồi em đã phạm một tội ác. Sau đó em bị ốm nặng và buộc phải đi khám bệnh. Ông bác sĩ bảo rằng không bao giờ em có thể có con nữa.
- Thế còn anh thủy thủ?
- Anh ấy đi xa. Và em không nhận được một tin tức nào của anh ấy nữa.
Lêô đánh diêm lên. Pôlône ngồi thẳng, hai mắt nhắm lại, miệng hé mở. Trông cô như một bị cáo bình thản chờ tuyên án mà trong lòng không cảm thấy một nỗi hồi hộp nào đặc biệt. Anh vứt que diêm xuống sàn, nhẹ nhàng đỡ cho Pôlône nằm xuống thoải mái rồi cúi xuống hôn mặt cô, ngực cô, vai cô.
- Và tất nhiên em hoàn toàn không phải là một nhân viên tốc ký - Pôlône nói - Lêô, bây giờ anh đã hiểu em làm nghề gì chưa?
- Anh hiểu rồi, Pôlône.
- Em thật ngốc mới đi kể anh nghe tất cả những chuyện ấy phải không?
- Không, không phải thế đâu.
- Bây giờ anh đã biết hết cả rồi, anh Lêô. Và không phải em mười chín tuổi đâu, mà là hai mươi ba. Anh có nghe thấy không đấy, Lêô?
- Có, anh có nghe thấy.
Cô xiết chặt tay anh bằng cả hai bàn tay - Anh Lêô!
- Anh đây.
- Thật tuyệt là anh đã kể em nghe về tấm khăn màu tro của mẹ anh, về tâm hồn và về màu tro của cặp mắt mẹ anh! Còn trong mắt em... Em muốn nói: anh không nghĩ là anh có thể lầm chứ?
- Không, anh không lầm đâu. Anh cũng trông thấy đúng như thế cả? trong đôi mắt em.
Cô khẽ buông một tiếng thở dài. Hình như cô mỉm cười.
Thế rồi trong gian gác xép lại yên tĩnh. Chỉ có tiếng thở của hai người và tiếng kèn kẹt của sâu đục gỗ.
Anh âu yếm cô, còn cô vuốt vuốt nơi gáy anh.
- Lêô! - Cô thì thầm.
- Gì thế em?
- Anh đánh diêm lên và nhìn, một lần nữa vào mắt em xem trong đó có... có cái gì anh biết rồi đấy, Lêô. Anh đánh diêm nhé?
Anh đánh diêm. Hai người lại nhìn nhau. Đôi mắt cô to, màu tro, đầy băn khoăn và hoài nghi, nhưng trong đó đã ánh lên một thoáng hy vọng.
- Có đấy, anh nói. - Trong mắt em anh cũng trông thấy cái đó.
- Anh trông thấy cái gì vậy, Lêô? Tâm hồn ư?
- Đúng thế.
Cô thở phào nhẹ nhõm và càng nép chặt hơn vào anh.
- Anh là người tuyệt vời nhất em được gặp từ trước tới nay! Cô nói. - không có ai đáng yêu và dễ thương như anh. Thật sung sướng là em đã gặp anh. Sẽ không bao giờ em quên cuộc gặp gỡ này.
- Cả anh cũng thế, - anh nói, giọng ngái ngủ. Bây giờ ta hãy ngủ một giấc thỏa thuê đã. Rồi ngày mai, trước khi anh đi, chúng ta sẽ nói chuyện...
- Chuyện gì vậy, Lêô?
- Chuyện hai ta sẽ sống thế nào trong tương lai! - Anh nói
- Phải suy nghĩ về điều đó em ạ.
Anh thấy Pôlône vẫn cứ vuốt vuốt nơi gáy anh. Vừa mơ màng thiếp đi anh vừa nghĩ tới ngày tận thế bây giờ đã xa anh lắm, xa lắc xa lơ rồi. Đó là một thời kỳ lạ lùng, về thực chất đó là thời kỳ kể ra cũng có lắm cái hay. Nhưng nó đã qua. Bây giờ, anh lại sống trong một thế giới có rừng xanh và biển cả rì rào, nơi ngự trị vĩnh viễn của một điều gì đó mới mẽ, lớn lao và quan trọng.
Không hiểu sao Lêô bỗng tỉnh giấc ngay, anh nhìn quanh thì thấy có một mình, Pôlône ở dưới bếp chăng? Anh bật dậy khỏi giường. Trong bếp không có ai. Pôlône đã biến mất. Lúc ấy là sáu giờ rưỡi. Bây giờ Giô đến tiễn Lêô để cùng anh lên đường tới miền Bắc xa xôi.
Pôlône đã đi, nhưng hoa thì cô đem theo. Trên bệ cửa sổ có một mẩu giấy xé ở rìa báo ra. Bằng một nét chữ to tướng như trẻ con, chẳng có chấm phẩy gì cả, trên mẩu giấy viết: "Lêô vĩnh biệt anh, ngàn lần cám ơn anh về tất cả mọi chuyện, chúc anh lên đường may mắn đừng nghĩ tới em Pôlône".
Anh áp chặt mảnh giấy lên môi, và trong chốc lát, anh đấu tranh, với nỗi đau đớn đang giằng xé tâm hồn anh. Mắt anh tối sầm lại, nhưng trạng thái đó kéo dài không lâu rồi qua đi, anh không cảm thấy rã rời ở đầu gối nữa.
Ngoài phố, làn khói vĩnh cửu của các đám cháy cuộn trôi trong ánh đỏ quạch của mặt trời.
Trong tập "Ánh sáng diệu kỳ" Nhà xuất bản Văn học nước ngoài Mátxcơva 1961
VŨ ĐÌNH BÌNH dịch
(SH26/8-87)
----------------------------
1. Người bạn đáng thương (tiếng Pháp).
2. Ở đây có nghĩa là: thợ Vạch dấu cây rừng (tiếng Anh).
3. Dễ mến (tiếng Anh)
4. Tạm biệt anh nhé, Hẹn gặp lại (tiếng Pháp).
5. Một ấn phẩm phổ biến ra ngày chủ nhật ở Mỹ.