Truyện dịch
Người con đỡ đầu
14:41 | 24/04/2020

L. TOLSTOY

Các anh em từng nghe nói rằng: mắt đền mắt, răng đền răng; còn ta nói với các anh em rằng: đừng chống lại kẻ ác. (Phúc Âm theo Matthiew V, 38, 39).

Người con đỡ đầu
Ảnh: internet

I

Một người nông dân nghèo sinh được đứa con trai. Người nông dân vui mừng, sang nhà hàng xóm mời làm cha đỡ đầu. Ông hàng xóm từ chối: không muốn đỡ đầu cho con nhà nghèo. Anh nông dân nghèo đi sang nhà khác, người này cũng từ chối.

Người nông dân đi khắp làng không tìm được ai làm cha đỡ đầu. Anh bèn đi sang làng khác. Anh gặp trên đường một người đang đi ngược lại. Người ấy dừng lại chào:

- Chào anh nông dân, Chúa đưa anh đi đâu vậy?

- Chúa ban cho tôi đứa con, - anh nông dân nói - khi trẻ thì có đứa để chăm nom, khi già thì có đứa để an ủi, còn khi chết nó lo cúng giỗ cho. Nhưng tại tôi nghèo quá, chẳng ai trong làng tôi muốn làm cha đỡ đầu cho nó. Nên tôi đi tìm người đỡ đầu.

Người đi đường bèn nói:

- Để tôi làm cha đỡ đầu cho.

Người nông dân mừng rỡ, cảm ơn người khách bộ hành và nói:

- Vậy tôi nên mời ai làm mẹ đỡ đầu?

Người khách bộ hành đáp:

- Ông nên mời con gái ông thương gia làm mẹ đỡ đầu. Hãy đi vào thành phố, ở quảng trường có ngôi nhà xây bằng đá có mấy cái ghế dài ở trước, chỗ lối vào hỏi ông thương gia, để ông ấy cho con gái đi làm mẹ đỡ đầu.

Anh nông dân ngần ngại.

- Làm sao tôi dám đến chỗ ông thương gia giàu có, ông ấy sẽ khinh tôi, không cho con gái ông ấy đi đâu.

- Anh khỏi phải bận lòng. Cứ đi và hỏi xin đi. Đến sáng ngày mai hãy chuẩn bị sẵn, tôi sẽ đến làm lễ cho.

Người nông dân nghèo quay về, rồi đi vào thành phố đến nhà ông thương gia. Anh để ngựa ngoài sân. Chính ông thương gia đích thân bước ra hỏi:

- Anh cần gì?

- Việc thế này ạ, thưa ngài thương gia: Chúa ban cho tôi đứa con: khi trẻ có đứa để chăm nom, khi già có người an ủi, còn khi chết có người cúng giỗ. Làm ơn cho con gái ông đến làm mẹ đỡ đầu cho con tôi.

- Thế bao giờ anh làm lễ rửa tội?

- Sáng ngày mai ạ.

- Được rồi, anh về đi, sáng mai nó sẽ tới trước lễ.

Ngày hôm sau mẹ đỡ đầu tới, người cha đỡ đầu cũng tới, họ làm lễ rửa tội cho đứa bé. Lễ vừa xong, người cha đỡ đầu rời đi ngay, không ai biết ông ta là ai, và cũng không ai nhìn thấy ông ta từ dạo đó.

II

Đứa trẻ lớn lên trong niềm vui của cha mẹ; nó mạnh khỏe, chăm chỉ, thông minh và hiền lành. Chú bé được mười tuổi, cha mẹ cho đi học chữ. Điều những đứa trẻ khác phải học trong năm năm, thì nó chỉ cần một năm đã học hết. Nó không còn gì để học nữa.

Tuần lễ thánh tới. Chú bé đi đến nhà mẹ đỡ đầu để chúc mừng Lễ Phục sinh, khi trở về nó hỏi:

- Cha mẹ ơi, thế cha đỡ đầu của con sống ở đâu? Con muốn đến chúc Lễ ông.

Cha nó đáp:

- Chúng ta không biết cha đỡ đầu của con ở đâu, con trai yêu quý ạ. Chúng ta cũng băn khoăn về điều đó. Không thấy ông ấy từ khi ông làm lễ rửa tội cho con. Cũng không nghe gì về ông ấy, vì thế không biết ông ấy sống ở đâu và có còn sống hay không.

Đứa con trai cúi mình trước cha mẹ. Nó nói:

- Xin cha mẹ cho phép con đi tìm cha đỡ đầu. Con muốn tìm ông ấy để chúc Lễ Phục sinh.

Ông bố bà mẹ cho phép đứa con. Và chú bé lên đường đi tìm người cha đỡ đầu.

III

Chú bé rời nhà lên đường. Đi được nửa ngày, nó gặp một người khách bộ hành.

Người khách dừng lại.

- Chào chú bé, - ông ta nói - chú đi đâu đấy?

Chú bé bèn kể:

- Cháu đến chỗ mẹ đỡ đầu chúc Lễ Phục sinh, rồi về nhà hỏi cha mẹ: cha đỡ đầu của con sống ở đâu? Con muốn chúc Lễ Phục sinh ông ấy. Cha mẹ nói với cháu: chúng ta không biết cha đỡ đầu của con sống ở đâu, con trai ạ. Từ khi làm lễ rửa tội cho con, ông ấy đi khỏi đây, và chúng ta không biết gì về ông ấy, cũng không biết ông ấy còn sống hay không. Cháu muốn gặp cha đỡ đầu của mình nên đang đi tìm ông ấy đây.

Người khách bộ hành nói:

- Ta là cha đỡ đầu của cháu đây.

Chú bé mừng rỡ, chúc Lễ cha đỡ đầu của mình.

- Thế cha đỡ đầu đang đi đâu đấy ạ? Nếu đi về hướng nhà con, thì mời cha về nhà con, còn nếu cha đi về nhà cha, thì cho con đi cùng cha.

Người cha đỡ đầu nói:

- Ta đang bận không đến nhà con bây giờ được: ta có việc ở các làng khác. Mai ta mới về nhà mình. Khi đó con hãy đến chỗ ta.

- Làm sao con tìm được cha?

- Con đi về hướng mặt trời mọc, cứ đi thẳng, đến một khu rừng, con sẽ nhìn thấy giữa rừng có bãi cỏ. Con ngồi xuống bãi cỏ đó, nghỉ và nhìn xem chuyện gì xảy ra. Con ra khỏi rừng, sẽ trông thấy khu vườn, còn trong vườn có tòa nhà mái vàng. Đó là nhà của ta. Hãy đến chỗ cổng, ta sẽ ra đón con.

Người khách nói vậy và biến mất khỏi tầm mắt của đứa con đỡ đầu.

IV

Chú bé đi theo chỉ dẫn của người cha đỡ đầu. Cậu đi mãi, đi mãi và đến được khu rừng. Cậu đi tới bãi cỏ và trông thấy giữa bãi cỏ có một cây thông, trên cành cây thông có buộc một sợi dây, treo trên sợi dây là một khúc gỗ sồi nặng chừng ba pud còn dưới khúc gỗ có chiếc máng đầy mật. Chú bé vừa nghĩ tại sao mật lại để ở đây và sao khúc gỗ lại được treo lên như vậy, thì bỗng nghe rừng rung chuyển và trông thấy một bầy gấu đang đi tới: phía trước là gấu mẹ, đi theo nó là gấu cha, còn phía sau là ba con gấu con. Gấu mẹ vươn mũi đánh hơi và đi ngang qua, thẳng tiến tới máng thức ăn, còn lũ gấu con chạy theo nó. Gấu mẹ sục mõm vào mật, gọi lũ con. Chúng nhảy nhót chạy lại chỗ thức ăn. Khúc gỗ lắc qua lắc lại, đập vào lũ gấu con. Gấu mẹ trông thấy thế bèn đẩy khúc gỗ. Khúc gỗ văng ra xa hơn và lại quay lại, đập vào chính giữa lũ gấu con, vào lưng, vào đầu chúng. Lũ gấu con kêu rống và bỏ chạy. Gấu mẹ gầm lên, dùng hai chân trước ôm lấy khúc gỗ đưa lên đầu và ném ra xa. Khúc gỗ bay lên cao, con gấu đực nhảy tới sục mõm vào máng mật, ăn nhồm nhoàm, những con còn lại cũng chạy tới. Chưa kịp tới nơi thì khúc gỗ lại bay trở lại, đập vào đầu gấu đực giết chết nó. Con gấu mẹ rống lên to hơn chộp lấy khúc gỗ và lấy hết sức tung lên cao. Khúc gỗ bay lên trên cành cây, thậm chí sợi dây buộc lỏng ra. Gấu mẹ lại gần chỗ thức ăn, cả lũ gấu con chạy theo. Khúc gỗ bay lên, bay lên cao, dừng lại rồi lại lao xuống. Càng xuống thấp khúc gỗ càng lao nhanh, đến khi nhanh hết mức, nó lao đập thẳng vào đầu gấu mẹ. Gấu mẹ ngã chỏng gọng và tắt thở. Lũ gấu con bỏ chạy.

Minh họa: Đặng Mậu Tựu


V

Chú bé kinh ngạc chứng kiến cảnh đó và đi tiếp. Chú đến một khu vườn lớn, trong vườn có tòa nhà cao mái dát vàng. Ở cổng tòa nhà, ông cha đỡ đầu đang đứng mỉm cười. Ông chào cậu con đỡ đầu, dắt nó qua cổng và đưa đi thăm khu vườn. Cả trong mơ chú bé cũng chưa từng thấy vẻ đẹp tươi tắn đến thế như ở trong khu vườn này.

Người cha đỡ đầu dắt chú bé vào lâu đài. Lâu đài còn đẹp hơn. Cha đỡ đầu dắt chú thăm tất cả các phòng: càng lúc càng đẹp hơn, càng lúc càng vui hơn, và dẫn nó đến một cánh cửa đóng kín.

- Con có trông thấy cánh cửa này không? - Ông nói với chú bé - Không có ổ khóa, chỉ có dấu niêm phong thôi. Không được mở nó, ta không cho phép con mở. Con hãy sống và vui chơi tùy thích, hưởng thụ mọi thú vui, chỉ có một mệnh lệnh duy nhất: không được bước vào cửa này. Nếu như con bước vào, con hãy nhớ những gì đã nhìn thấy ở trong rừng.

Nói xong, người cha đỡ đầu bỏ đi. Chú bé ở lại một mình và bắt đầu cuộc sống mới. Cậu sống vui sướng đến nỗi tưởng mới có ba giờ mà hóa ra cậu đã sống ở đây được ba mươi năm. Khi ba mươi năm đã trôi qua, người con đỡ đầu đến bên cánh cửa niêm phong và nghĩ: “Tại sao cha đỡ đầu không cho mình vào trong căn phòng này? Hãy thử vào xem có cái gì trong đó?”

Anh đẩy cửa, những dấu niêm phong bung ra, cánh cửa mở ra. Người con đỡ đầu bước vào và thấy đây là phòng đẹp hơn tất cả các phòng khác, ở giữa phòng có một cái ngai bằng vàng. Anh đi quanh phòng và lại gần cái ngai, bước lên các bậc và ngồi vào đó. Anh ngồi và thấy cạnh cái ngai có dựng một cây quyền trượng. Anh cầm lấy cây quyền trượng, bỗng nhiên bốn bức tường lâu đài đổ xuống. Người con đỡ đầu nhìn quanh và thấy cả thế giới, thấy tất cả những gì mà mọi người làm ra trên thế giới. Anh nhìn phía trước thấy biển cả. Nhìn sang bên phải, thấy những dân tộc xa lạ không theo Cơ đốc giáo sinh sống. Nhìn sang phía bên trái thấy những người Cơ đốc nhưng không phải là người Nga sinh sống. Nhìn vào phía thứ tư, thấy những người Nga của chúng ta sinh sống. “Mình thử nhìn xem ở nhà mình ra sao rồi, lúa mì có tốt hay không?” Người con đỡ đầu tự nhủ. Anh nhìn thấy cánh đồng của nhà mình với các bó lúa ở đó. Anh bắt đầu đếm các bó lúa, xem lúa mì có nhiều hay không, rồi trông thấy có cỗ xe chạy trên đồng, trên đó có một người nông dân đang ngồi. Người con đỡ đầu tưởng rằng đó là cha mình ban đêm đi đánh rơm. Nhìn kỹ thì thấy đó là tên kẻ trộm Vasily Kudryashov. Hắn lại gần các bó lúa và chất chúng lên xe. Người con đỡ đầu tức giận, hét lớn: “Cha ơi, người ta ăn trộm lúa nhà mình!”

Người cha thức giấc nửa đêm. “Mình mơ thấy người ta ăn trộm lúa ngoài đồng, phải đi ra xem sao”. Ông bèn lên ngựa đi ra đồng.

Ra tới đồng, ông trông thấy Vasily, kêu những người nông dân khác tới. Họ đánh Vasily, trói lại và giải đi tù.

Người con đỡ đầu nhìn sang thành phố, nơi có mẹ đỡ đầu của anh sống. Anh nhìn thấy bà đã cưới một người thương gia. Bà đang nằm ngủ, còn chồng thì ngồi dậy và đi đến chỗ tình nhân. Người con đỡ đầu kêu lên với bà mẹ đỡ đầu: “Mẹ dậy đi, chồng mẹ đang làm việc xấu xa”.

Bà mẹ đỡ đầu vùng dậy, khoác áo đi tìm chồng mình, chửi mắng và đánh cô nhân tình rồi đuổi chồng ra khỏi nhà.

Người con đỡ đầu lại nhìn sang mẹ mình, và thấy bà đang nằm trong nhà, một tên kẻ cướp trèo vào nhà cạy rương hòm.

Bà mẹ tỉnh giấc, kêu lên. Tên cướp trông thấy bèn chộp lấy cây rìu vung lên trên bà mẹ định giết bà.

Cậu con đỡ đầu không kìm được bèn vung cây quyền trượng về phía tên cướp, trúng thái dương và giết chết hắn tức thì.

VI

Người con đỡ đầu vừa giết chết tên cướp xong thì những bức tường lại dựng lên, căn phòng trở về như cũ.

Cánh cửa phòng mở ra, người cha đỡ đầu bước vào. Ông đến gần người con trai, nắm tay anh, dắt anh rời khỏi ngai vàng và nói:

- Con đã không nghe lệnh của ta: làm một điều tồi tệ là mở cánh cửa bị cấm; con làm điều tồi tệ thứ hai là ngồi lên ngai và cầm lấy quyền trượng của ta; điều tồi tệ thứ ba là tạo ra nhiều cái ác trên thế gian. Nếu như con còn ngồi thêm một giờ nữa, con có thể hủy hoại một nửa dân chúng.

Rồi ông dẫn anh quay trở lại chiếc ngai, đưa cây quyền trượng vào tay anh. Những bức tường lại đổ xuống, và lại nhìn thấy rõ mồn một mọi thứ.

Người cha đỡ đầu nói:

- Bây giờ con nhìn xem con đã làm gì cha con: Vasily bị ngồi tù một năm rồi, học được đủ mọi điều ác và rất hung hăng. Xem kìa, hắn đã lấy đi hai con ngựa của cha con, và hắn còn đang đốt cả chuồng ngựa nhà con. Con đã làm cho cha con ra nông nỗi đó đấy.

Người con đỡ đầu vừa nhìn thấy chuồng ngựa nhà cha mình cháy, thì người cha đỡ đầu liền đóng lại cảnh đó và bảo anh nhìn về hướng khác.

- Chồng mẹ đỡ đầu của con đã một năm nay bỏ vợ và rong chơi với những phụ nữ khác. Bà ấy đau buồn mà uống rượu, còn cô tình nhân trước đây của ông chồng thì hoàn toàn đổ đốn. Đó là điều con đã làm với mẹ đỡ đầu của mình.

Người cha đỡ đầu đóng cảnh đó lại, chỉ cho người con ngôi nhà của anh. Và anh nhìn thấy mẹ mình ngồi khóc và hối hận vì những tội lỗi của mình: “Giá như lúc đó thằng cướp giết tôi đi, thì tôi đã không gây ra những tội lỗi đó”.

- Đó là điều con đã gây ra cho mẹ con.

Người cha đỡ đầu đóng cảnh đó lại và chỉ xuống dưới. Người con nhìn thấy tên kẻ cướp: hai người lính gác giữ tên cướp ở trước nhà tù. Và người cha đỡ đầu nói với người con:

- Con người này đã giết chết chín mạng người. Hắn phải chuộc những tội lỗi do hắn gây ra, nhưng con đã giết hắn và nhận vào mình tất cả tội lỗi của hắn. Giờ đây con phải trả lời cho những tội của hắn. Đó là điều mà con đã gây ra cho chính mình.

Con gấu mẹ lần đầu đẩy khúc gỗ, nó làm lũ gấu con sợ hãi; lần thứ hai nó đẩy, làm chết gấu bố, còn lần thứ ba đẩy, nó giết chết chính mình. Con cũng làm như vậy. Giờ ta cho con thời hạn ba mươi năm. Hãy đi vào đời mà chuộc những tội của tên kẻ cướp. Nếu như con không chuộc hết được tội, con sẽ phải đến chỗ của hắn.

Người con đỡ đầu hỏi:

- Làm sao con chuộc được tội lỗi của hắn?

Người cha đỡ đầu nói:

- Khi con nếm trải hết những cái ác mình đã gây ra trên thế gian, khi đó con mới chuộc được hết tội lỗi của mình và của tên cướp.

Người con đỡ đầu lại hỏi:

- Làm sao thoát khỏi cái ác trên thế gian?

Người cha đỡ đầu nói:

- Con hãy đi thẳng về hướng mặt trời mọc, đến một cánh đồng, trên cánh đồng có người ta ở đó. Hãy để ý xem mọi người làm gì thì dạy cho họ điều con biết. Sau đó đi tiếp, để ý những gì con nhìn thấy; đến ngày thứ tư con sẽ tới một khu rừng, trong rừng có một tu phòng, trong tu phòng có một đạo sĩ sống, hãy kể cho ông ta tất cả những chuyện đã xảy ra. Ông ấy sẽ dạy bảo con. Khi con làm hết những điều người đạo sĩ bảo làm, lúc đó con chuộc được những tội lỗi của con và của tên cướp.

Người cha đỡ đầu nói như vậy và tiễn người con ra cổng.

VII

Người con đỡ đầu lên đường. Anh vừa đi vừa nghĩ: “Làm sao mình tiêu diệt được cái ác trên đời này? Người ta tiêu diệt cái ác trên đời bằng cách đày những kẻ ác đi, bỏ chúng vào tù và xử tử chúng. Làm sao mình có thể tiêu diệt cái ác mà không nhận lấy cái ác của người khác vào mình?” Người con đỡ đầu cứ nghĩ mãi, nghĩ mãi mà nghĩ không ra.

Anh đi mãi tới một cánh đồng. Trên đồng lúa tươi tốt, rậm rạp và đã đến lúc phải gặt. Người con đỡ đầu trông thấy một con bò đi vào đồng lúa và nhìn thấy người ta cưỡi ngựa đuổi con bò chạy trên đồng từ góc này đến góc kia. Con bò vừa muốn nhảy ra khỏi đồng lúa thì gặp người khác chạy tới, nó sợ hãi quay vào lại cánh đồng; người ta lại phi ngựa đuổi nó chạy quanh đồng. Còn trên đường có một người đàn bà đứng khóc: “Họ đuổi con bò của tôi đến chết mất thôi”.

Người con đỡ đầu bèn nói với những người nông dân:

- Sao các ông lại làm như thế? Tất cả hãy ra khỏi cánh đồng, để bà chủ của con bò gọi nó.

Mọi người nghe theo. Người đàn bà đi tới bìa ruộng và gọi: “Lại đây, lại đây, bò nâu của tao, lại đây, lại đây” Con bò dỏng tai cảnh giác, nó lắng nghe, lắng nghe rồi chạy về phía người đàn bà, rúc đầu vào váy bà suýt làm bà ta ngã. Đám nông dân mừng rỡ, người đàn bà mừng rỡ, cả con bò cũng mừng rỡ.

Người con đỡ đầu đi tiếp và nghĩ: “Giờ mình đã thấy rằng cái ác ngày càng nhiều lên. Người ta càng xua đuổi cái ác thì nó lại càng sinh sôi. Nghĩa là không nên dùng cái ác để tiêu diệt cái ác. Nhưng làm sao để tiêu diệt nó thì mình không biết. May mà con bò nó nghe lời bà chủ, nhưng nếu nó không nghe lời thì làm sao gọi được nó?”

Người con đỡ đầu nghĩ mãi, nghĩ mãi mà nghĩ không ra, tiếp tục đi.

VIII

Người con đỡ đầu đi mãi, đi mãi đến một ngôi làng. Anh xin nghỉ lại đêm ở một căn nhà ở bìa làng. Bà chủ nhà cho anh vào nhà. Trong ngôi nhà không có ai, chỉ một mình bà chủ nhà đang dọn rửa.

Người con đỡ đầu vào nhà, trèo lên bệ lò sưởi nằm và quan sát xem bà chủ nhà làm gì; anh thấy bà rửa nhà xong thì rửa đến cái bàn. Bà dội nước cái bàn xong bắt đầu lau chùi bằng cái khăn lau bẩn. Bà lau ở một góc, nhưng bàn không sạch được. Cái khăn lau giây bẩn ra cả bàn. Bà lau sang góc kia, lau được vết này thì giây ra vết bẩn khác. Lại lau dọc bàn, cũng như thế. Bà bôi bẩn bằng cái khăn bẩn; cứ chùi một vết bẩn lại làm giây ra vết khác. Người con đỡ đầu quan sát và bảo:

- Bà chủ nhà ơi, bà đang làm gì đấy?

- Chả lẽ anh không trông thấy tôi đang dọn rửa chuẩn bị cho ngày lễ. Vậy mà không làm sao lau sạch được cái bàn, đến là khổ.

- Bà nên giặt sạch cái khăn lau đi thì sẽ lau được sạch thôi.

Bà chủ nhà làm theo và lau sạch được cái bàn.

- Cảm ơn anh đã dạy bảo - bà ta nói.

Buổi sáng, người con đỡ đầu chia tay với bà chủ nhà và đi tiếp. Anh đi mãi, đi mãi và đến một khu rừng. Anh trông thấy những người nông dân đang gò một cái vành bánh xe. Người con đỡ đầu lại gần, nhìn thấy họ xoay vần mà vành bánh xe không chịu cong lại.

Người con đỡ đầu thấy họ có một cây trụ nhưng không được giữ chặt. Xem xét xong người con đỡ đầu hỏi:

- Này những người anh em, các ông đang làm gì đấy?

- Chúng tôi đang gò cái vành bánh xe. Đã cố đến hai lần rồi, mệt bã cả người mà nó không chịu cong lại.

- Các ông giữ chặt cái trụ lại, chứ không nó cứ quay theo cùng các anh.

Những người nông dân nghe theo, giữ chặt cái trụ, và mọi việc trở nên trôi chảy.

Người con đỡ đầu nghỉ đêm tại chỗ những người nông dân, rồi đi tiếp. Anh đi suốt ngày đêm, trước lúc bình minh thì đến chỗ những người chăn gia súc, ghé nằm xuống cạnh họ. Anh nhìn thấy họ thu xếp cho lũ gia súc xong thì đốt lửa. Họ lấy những cành khô để nhen nhưng lửa không cháy bùng lên được. Họ chất thêm cành ướt, cành cây kêu xèo xèo, nhưng ngọn lửa tắt ngúm. Những người chăn gia súc lại lấy cành khô nhen lửa, lại cho cành ướt lên trên, lửa lại tắt. Họ vật lộn mãi vẫn không nhóm lửa được.

Người con đỡ đầu nói:

- Các anh đừng vội đặt cành cây ướt lên, mà trước tiên đợi lửa cháy đượm đã. Khi lửa thật nóng rồi thì hãy thêm cành vào.

Những người chăn gia súc làm như thế, họ nhen lửa thật đượm, rồi mới cho thêm cành lên trên. Cành bắt lửa, cả đống lửa bùng lên. Người con đỡ đầu ở với họ một lúc rồi đi tiếp. Anh cứ nghĩ mãi, nghĩ mãi về ba việc mà anh vừa thấy, nhưng không thể hiểu được.

IX

Người con đỡ đầu đi mãi, đi mãi, đi hết cả ngày. Anh đến một khu rừng, trong rừng có một cái am nhỏ. Người con đỡ đầu đến gần cái am, gõ cửa. Từ trong am có giọng nói hỏi ra:

- Ai vậy?

- Tôi là một tội đồ vĩ đại đi chuộc tội của người khác.

Một đạo sĩ bước ra và hỏi:

- Những tội lỗi nào của người khác ở trong con?

Người con đỡ đầu kể tất cả cho đạo sĩ: nào là về người cha đỡ đầu, nào về gấu mẹ và lũ gấu con, về cái ngai trong căn phòng bị niêm phong, và về điều mà cha đỡ đầu sai khiến, về việc anh trông thấy những người nông dân truy đuổi con bò và việc nó tự chạy ra với bà chủ.

- Tôi hiểu được rằng không thể dùng cái ác để tiêu diệt cái ác, - anh nói - nhưng tôi không hiểu làm sao để tiêu diệt nó. Xin hãy chỉ bảo cho tôi.

Và người đạo sĩ nói:

- Con hãy cho ta biết con còn trông thấy gì trên đường nữa?

Người con đỡ đầu kể về người đàn bà lau chùi như thế nào, về những người nông dân gò vành bánh xe, và về những người chăn gia súc nhóm lửa.

Đạo sĩ nghe xong, quay vào lại trong am, đem ra một cây búa nhỏ.

- Đi nào, - ông nói.

Đạo sĩ rời am ra đường, chỉ vào một cái cây.

- Con chặt đi, - ông bảo.

Người con đỡ đầu chặt, cái cây đổ xuống.

- Bây giờ chặt nó ra làm ba.

Người con đỡ đầu chặt cây ra làm ba. Vị đạo sĩ lại quay về am và mang ra mồi lửa.

- Hãy đốt ba cây củi này, - ông nói.

Người con đỡ đầu nhen lửa đốt ba đoạn cây, chỉ còn lại ba mẩu củi cháy dở.

- Hãy vùi chúng xuống đất một nửa. Thế đấy. Và người con đỡ đầu vùi ba mẩu củi xuống đất.

- Con có thấy dưới chân núi có con sông không, hãy đến lấy nước ở đó, ngậm vào mồm và mang về đây tưới. Tưới cho mấy mẩu củi cháy này theo cách con đã dạy người đàn bà. Tưới theo cách con đã bày cho những người gò bánh xe. Tưới theo cách con đã bảo những người chăn gia súc. Khi ba mẩu củi cháy này mọc thành cây, lúc đó con sẽ biết cách làm thể nào tiêu diệt được cái ác trong mọi người, lúc đó con sẽ chuộc được tội lỗi.

Vị đạo sĩ nói như thế rồi đi vào trong am. Người con đỡ đầu nghĩ mãi, nghĩ mãi vẫn không hiểu vị đạo sĩ nói gì với mình. Nhưng anh bắt tay vào làm điều mà ông yêu cầu.

X

Người con đỡ đầu đi ra sông, ngậm đầy nước vào mồm, nhả ra tưới cho mẩu cây cháy, rồi lại đi ra sông nữa, đi nữa, một trăm lần đi về cho đến khi tưới ướt đất quanh một mẩu cây. Rồi sau lại đi ngậm nước tưới cho hai mẩu còn lại. Anh mệt nhoài, đói mềm. Bèn đi vào am của vị đạo sĩ xin thức ăn. Anh mở cửa, thì thấy vị đạo sĩ đã nằm chết trên ván. Người con đỡ đầu lục quanh, tìm thấy những mẩu bánh mì khô và ăn chúng; anh tìm thấy cả một cái thuổng và bắt đầu đào mộ cho vị đạo sĩ. Ban đêm anh lấy nước và tưới nước, còn ban ngày thì đào mộ. Anh vừa đào xong cái mộ, đang định chôn thì mọi người từ trong làng tới mang thức ăn cho đạo sĩ.

Mọi người biết được rằng đạo sĩ đã chết và đã chúc phúc, giao cho người con đỡ đầu ở am của mình. Mọi người chôn cất đạo sĩ, để lại bánh mì cho người con đỡ đầu, hứa sẽ đem thêm nữa rồi ra đi.

Người con đỡ đầu ở lại sống trong am của đạo sĩ. Ông sống ở đó, ăn những gì người ta mang tới cho mình, và làm công việc mà đạo sĩ đã giao: ngậm nước ngoài sông mang về tưới cho những mẩu củi.

Người con đỡ đầu sống như vậy trong một năm, và ngày càng nhiều người đến với ông. Danh tiếng của ông vang xa, rằng trong rừng có một vị thánh đang sinh sống, ngậm nước từ dòng sông dưới núi mang về tưới cho những cành cây củi cháy. Nhiều người đến chỗ ông. Những thương gia giàu có tới mang theo quà cáp. Người con đỡ đầu không nhận gì cả ngoài những thứ thiết yếu, những thứ người ta cho ông lại đem chia cho người nghèo.

Người con đỡ đầu cứ sống như thế: nửa ngày lấy nước ngậm vào mồm tưới cho những cây củi, còn nửa ngày còn lại nghỉ ngơi và tiếp dân chúng.

Người con đỡ đầu bắt đầu nghĩ rằng ông được yêu cầu sống như thế, bằng cách đó tiêu diệt cái ác và chuộc tội.

Người con đỡ đầu sống như thế thêm một năm nữa, không ngày nào không tưới, nhưng không một khúc củi nào mọc thành cây.

Một lần ông ngồi trong am, nghe tiếng người cưỡi ngựa đi ngang và hát vang. Người con đỡ đầu bước ra xem đó là người nào. Ông trông thấy một người khỏe mạnh, trẻ trung. Quần áo trên người hắn ta sang trọng, ngựa và yên cương đều đắt tiền.

Người con đỡ đầu chặn anh ta lại, hỏi hắn là ai và đang đi đâu.

Người đàn ông dừng lại, nói:

- Tôi là một kẻ cướp đi trên các con đường để giết người: càng giết nhiều người thì bài ca tôi hát lên càng vui.

Người con đỡ đầu kinh hoảng, nghĩ: “Làm sao tiêu diệt cái ác trong con người này? Mình dễ dàng nói chuyện với những người đến với mình, họ tự nguyện sám hối. Còn người này lại ca tụng cái ác”. Người con đỡ đầu không nói gì, bỏ đi rồi nghĩ: “Làm sao bây giờ, tên cướp này sẽ lui tới đây, đe doạ mọi người, họ sẽ thôi không đến với mình nữa. Cả họ không được lợi ích gì, mà cả mình cũng làm sao sống được?”

Người con đỡ đầu dừng lại. Ông quay lại nói với tên cướp:

- Những người đến đây không để ca tụng cái ác, mà để sám hối và cầu xin xá tội. Cả anh cũng nên sám hối đi, nếu như còn biết sợ Chúa; còn nếu như không muốn sám hối thì hãy đi khỏi đây và đừng bao giờ tới nữa, đừng làm phiền tôi và đừng làm dân chúng sợ hãi. Nếu như anh không nghe thì Chúa sẽ trừng phạt anh”.

Tên cướp cả cười. Hắn nói:

- Tôi không sợ, tôi sẽ không nghe cả lời Chúa lẫn lời ông. Ông không phải ông chủ của tôi. Ông sống nhờ vào việc cầu nguyện Chúa, còn tôi sống nhờ vào việc cướp bóc. Mọi người đều phải kiếm ăn. Ông hãy dạy bảo cho những người đàn bà đến tìm ông, còn không dạy bảo được gì cho tôi đâu. Vì ông có nhắc đến Chúa với tôi, nên sáng mai tôi sẽ giết hai người nữa. Cả ông hôm nay tôi cũng định giết, nhưng không muốn làm bẩn tay. Nhưng ông coi chừng tôi đấy.

Tên cướp đe dọa như thế rồi bỏ đi. Và hắn không tới nữa, người con đỡ đầu sống yên bình như trước. Ông sống như thế tám năm trời, và ông cảm thấy buồn chán.

XI

Một đêm người con đỡ đầu tưới những mẩu gỗ của mình xong, về lại am nghỉ và ngồi nhìn ra đường xem dân chúng sắp tới chưa. Ngày hôm đó không người nào tới cả. Người con đỡ đầu ngồi một mình tới tối, và ông cảm thấy buồn chán, bèn suy ngẫm về cuộc đời của mình. Ông nhớ tên cướp trách ông sống bằng việc cầu nguyện Chúa. Người con đỡ đầu nhìn lại cuộc đời mình. “Mình đã không sống như vị đạo sĩ bảo. Đạo sĩ trao lại cho mình cuộc sống tu hành, vậy mà mình lại dùng nó để kiếm bánh mì và vinh quang. Mình đã bị điều này mê hoặc, đến nỗi thấy buồn nếu người ta không đến với mình. Còn khi mọi người tới, thì mình chỉ mừng vui vì họ ca tụng sự thánh thiện của mình. Không thể sống như vậy được. Mình bị vinh quang trần tục làm lẫn lộn rồi. Những tội lỗi trước đây chưa chuộc được, lại tích thêm tội mới. Mình phải đi vào rừng, tới chỗ khác, nơi người ta không tìm ra. Mình sẽ sống một mình sao cho chuộc được những tội cũ và không gây thêm tội mới”.

Nghĩ như vậy rồi người con đỡ đầu cầm túi bánh khô và cái thuổng rời khỏi am đi về phía khe núi, để tìm một chỗ hoang vắng đào một cái hầm nhỏ, trốn khỏi con người.

Ông đang đi với túi bánh và cái thuổng, thì tên cướp đi ngang qua. Người con đỡ đầu hoảng sợ, muốn bỏ chạy, nhưng tên cướp đuổi kịp.

- Ông đi đâu đó? - Hắn hỏi.

Người con đỡ đầu kể rằng ông muốn rời khỏi mọi người đến một nơi không ai tìm ra ông. Tên cướp ngạc nhiên.

- Thế giờ ông ăn bằng gì, khi không ai đến với ông?

- Chúa ban cho gì thì ăn nấy - ông nói.

Tên cướp chẳng nói chẳng rằng bỏ đi tiếp.

“Sao mình lại không nói gì với anh ta về cuộc đời anh ta nhỉ! - người con đỡ đầu nghĩ - Biết đâu bây giờ anh ta sám hối. Hôm nay hình như anh ta nhẹ nhàng với mình hơn, không dọa giết nữa”. Thế là người con đỡ đầu hét theo tên cướp:

- Nhưng anh vẫn cần phải sám hối đấy. Anh không thoát khỏi Chúa được đâu.

Tên cướp quay ngựa lại. Hắn rút con dao khỏi thắt lưng vung về phía người con đỡ đầu. Ông hoảng sợ chạy vào rừng.

- Tôi đã tha cho ông hai lần, ông già ạ, lần thứ ba thì cẩn thận đấy, tôi sẽ giết đấy!

Hắn nói thế và bỏ đi. Đến tối người con đỡ đầu đi tưới cây, ông nhìn thấy một mầm nhú ra. Sẽ có một cây táo mọc lên.

XII

Người con đỡ đầu trốn khỏi mọi người và sống một mình. Bánh khô của ông đã hết. Ông nghĩ: “Nào bây giờ mình sẽ kiếm rễ cây ăn”. Vừa mới đi kiếm thì trông thấy trên cành cây có treo một túi bánh khô. Ông cầm lấy nó và ăn.

Cứ vừa hết bánh khô thì lại tìm thấy một túi bánh khác đúng chỗ cành cây đó. Và người con đỡ đầu sống như thế. Ông chỉ có một nỗi đau buồn là ông sợ tên cướp. Cứ nghe tiếng hắn là ông trốn đi. “Hắn sẽ giết chết mình, sẽ không kịp chuộc tội”.

Ông sống như vậy thêm mười năm nữa. Một cây táo lớn lên, còn hai mẩu cây khô còn lại vẫn là mẩu cây khô như cũ.

Một hôm người con đỡ đầu dậy sớm, đi làm các việc của mình, tưới ướt đất nơi các mẩu cây, thấy mệt và ngồi xuống nghỉ. Ông ngồi nghỉ và nghĩ: “Mình đã phạm tội, mình sợ chết. Chúa muốn mình chuộc tội bằng cái chết”. Vừa nghĩ tới đó thì ông bỗng nghe thấy tiếng tên cướp đi tới, vừa đi vừa chửi rủa. Người con đỡ đầu nghe tiếng bèn nghĩ: “Ngoài Chúa ra, không ai có thể làm điều xấu hay điều tốt cho mình cả”, và bước ra gặp tên cướp. Ông nhìn thấy hắn không đi một mình, mà mang theo trên yên ngựa một người. Người này bị trói tay và bịt mồm. Người đó im lặng, còn tên cướp thì chửi rủa anh ta. Người con đỡ đầu tiến lại gần tên cướp, đứng trước con ngựa.

- Anh đem người này đi đâu? - Ông nói.

- Tôi mang vào rừng. Đây là con trai lão thương gia. Hắn không chịu chỉ chỗ cha hắn giấu tiền. Tôi sẽ đánh hắn đến khi hắn khai ra.

Tên cướp định đi, nhưng người con đỡ đầu không cho, ông tóm lấy dây cương.

- Hãy thả người này ra. - Ông nói.

- Ông muốn gì hả, tôi đã hứa sẽ giết ông đấy. Buông ra.

Người con đỡ đầu không sợ hãi.

- Tôi không buông, - ông nói - Tôi không sợ anh, tôi chỉ sợ Chúa. Mà Chúa không bảo tôi buông. Anh hãy thả người này ra.

Tên cướp cau mày, rút dao ra cắt dây thả con trai người thương gia.

- Cả hai người hãy cút đi, đừng có để tôi thấy lần sau.

Con trai ông thương gia tụt xuống ngựa chạy mất. Tên cướp định bỏ đi, nhưng người con đỡ đầu vẫn giữ hắn lại, thuyết phục hắn bỏ lối sống xấu xa. Tên cướp lắng nghe, không nói gì và phi ngựa bỏ đi.

Buổi sáng người con đỡ đầu đi tưới những mẩu cây. Ông nhìn thấy cây thứ hai đã nhú mầm, cũng là một cây táo mọc lên.

XIII

Mười năm nữa trôi qua. Một lần người con đỡ đầu đang ngồi, không muốn gì và cũng không sợ gì cả, trong lòng vui sướng. Ông thầm nghĩ: “Chúa ban cho con người phước lành làm sao! Thế mà người ta tự làm mình khổ sở vô ích. Lẽ ra họ phải sống trong niềm hân hoan”. Và ông nhớ tới mọi cái ác của con người, tới việc họ tự làm khổ mình như thế nào. Ông cảm thấy thương con người. “Mình sống thật uổng phí - ông nghĩ - phải đi nói cho mọi người điều mà mình đã biết”.

Vừa nghĩ tới đó thì ông nghe tiếng tên cướp đi tới. Ông bỏ qua hắn và nghĩ: “Mình mà nói điều này với hắn thì hắn chẳng hiểu đâu”.

Thoạt đầu ông nghĩ thế, nhưng sau đó nghĩ lại, và đi ra đường. Tên cướp mặt mũi u ám, cúi nhìn xuống đất. Người con đỡ đầu nhìn hắn, và ông cảm thấy thương hắn, chạy tới ôm lấy đầu gối hắn.

- Người anh em yêu quý ơi, - ông nói - hãy thương lấy linh hồn mình! Linh hồn của Chúa đang ở cùng anh, anh đau khổ và làm người khác đau khổ, rồi lại càng khổ hơn nữa. Trong khi Chúa yêu thương anh, để dành ân huệ cho anh! Đừng làm hại mình nữa, người anh em. Hãy thay đổi lối sống của mình đi.

Tên cướp cau mặt quay đi.

- Hãy gượm đã. - Người con đỡ đầu nói.

Ông ôm chân tên cướp chặt hơn và nước mắt giàn giụa.

Tên cướp nhướng mắt nhìn người con đỡ đầu. Hắn nhìn mãi, nhìn mãi, một giọt nước mắt từ phía trên con ngựa rơi xuống đầu gối trước người con đỡ đầu.

- Ông thắng tôi rồi, ông già ạ. - Hắn nói - Hai mươi năm nay tôi chiến đấu với ông. Ông đã khuất phục được tôi. Giờ tôi bất lực trước ông rồi, ông muốn làm gì tôi thì làm. Khi lần đầu tiên ông khuyên tôi, tôi chỉ tức giận hơn thôi. Tôi chỉ ngẫm nghĩ về những lời của ông khi ông rời bỏ mọi người, và hiểu được rằng bản thân ông không cần gì từ mọi người cả.

Và người con đỡ đầu nhớ tới khi người đàn bà lau chùi cái bàn, khi bà ta giặt sạch cái khăn lau: ông không còn quan tâm đến bản thân mình nữa, trái tim ông được rửa sạch và rửa sạch cả trái tim những người khác.

Tên cướp nói:

- Trái tim tôi bắt đầu thay đổi khi ông không còn sợ cái chết nữa.

Và người con đỡ đầu nhớ tới những người nông dân gò được cái vành bánh xe khi giữ chắc được cái trục: ông không còn sợ chết, khẳng định sự sống của mình ở trong Chúa và khuất phục được trái tim bướng bỉnh.

Rồi tên cướp lại nói:

- Và tim tôi hoàn toàn tan chảy khi ông thương xót tôi và khóc trước tôi.

Người con đỡ đầu vui mừng, dẫn tên cướp theo mình đến chỗ những mẩu cây cháy được chôn. Họ tới nơi, thấy mẩu cây cuối cùng cũng là một cây táo đã mọc lên. Người con đỡ đầu nhớ tới những cành cây ướt của những người chăn gia súc cháy được khi ngọn lửa lớn đã được nhen lên. Trái tim cháy lên trong ông và cũng đốt cháy tim người khác.

Người con đỡ đầu vui mừng bởi vì giờ đây ông đã chuộc được tội lỗi.

Ông kể điều đó cho tên cướp rồi qua đời. Tên cướp chôn cất ông, rồi bắt đầu sống cuộc sống như người con đỡ đầu bảo, và dạy mọi người cũng sống như thế.

Trần Thị Phương Phương dịch

(từ nguyên bản tiếng Nga: Крестник// Л.Н. Толстой. Собрание сочинений в 22
тт. М.: Художественная литература, 1982.
T. 10, trang 370 - 384).  

(TCSH373/03-2020)



 

Các bài mới
Bóng tối (26/01/2024)
Tanoo (05/01/2024)
Cơn choáng (18/12/2023)
Lá thư (08/09/2023)
Mặc niệm Susan (14/08/2023)
Các bài đã đăng
Zaabalawi (25/09/2019)
Về nhà (06/08/2019)
Thợ săn Gracchus (24/06/2019)