JACK LONDON
Ngày đã trở nên lạnh lẽo và u ám, rất lạnh và rất u ám khi người đàn ông rẽ sang lối khác từ đường mòn Yukon và đi lên một bờ đất cao nơi có một đường mòn mờ mờ, ít người qua lại dẫn về hướng đông, xuyên qua rừng cây vân sam với những thân cây chắc khỏe.
Đó là một bờ dốc cao và anh dừng lại ở đỉnh dốc, biện hộ cho hành động của mình bằng cách nhìn đồng hồ. Đã 9 giờ. Không có mặt trời hay dấu hiệu sẽ có mặt trời, dù chẳng có chút mây trên bầu trời. Đó là một ngày không mây song dường như màu sẫm đặc mờ mờ bao trùm lên bề mặt của mọi vật, một màu u ám mơ hồ làm ngày trở nên u tối, do sự vắng bóng của mặt trời. Điều này không làm người đàn ông lo lắng. Anh đã quen với việc thiếu mặt trời. Đã nhiều ngày trôi qua kể từ lúc anh thấy mặt trời và anh biết rằng phải mất vài ngày nữa trước khi mặt trời vui tươi nhô lên ở đường chân trời ở phía nam rồi ngày sau đó chìm xuống khỏi tầm nhìn.
Người đàn ông nhìn lại lối mòn anh đã đi. Đường mòn Yukon nằm cách xa một dặm và chìm dưới ba feet băng. Trên lớp băng này là nhiều feet tuyết. Tất cả là một màu trắng xóa, gợn đều và nhấp nhô như sóng, do những đống băng tạo thành. Ở phía bắc và phía nam, xa như trong tầm mắt anh có thể nhìn thấy, chỉ có một màu trắng xóa, ngoại trừ một đường rất mảnh màu đen uốn quanh ốc đảo rừng cây vân sam, dẫn về hướng nam rồi uốn lượn dẫn về hướng bắc và mất hút sau ốc đảo rừng cây vân sam khác. Đường đen rất mảnh này là đường mòn chính, kéo dài năm trăm dặm về hướng nam, đến tận đèo Chilcoot, Dyea và kéo dài bảy mươi dặm đến Dawson ở hướng bắc, rồi lại kéo dài thêm một ngàn dặm đến Nulato, cũng ở hướng bắc và cuối cùng, kéo dài thêm hơn một ngàn năm trăm dặm đến St. Michael, trên biển Bering.
Nhưng tất cả những điều này - đường mòn đen rất mảnh, xa hun hút, huyễn hoặc, sự thiếu vắng mặt trời, cái lạnh kinh khiếp, sự lạ lùng và huyền bí của tất cả những điều đó đều không gây ra được ấn tượng nào cho người đàn ông. Điều này không phải bởi anh đã từ lâu quen thuộc với chúng. Anh là người mới trên vùng đất này và đây là mùa đông đầu tiên của anh. Vấn đề là anh không có khả năng liên tưởng và suy tưởng. Anh nhanh nhạy và linh lợi với sự vật, hiện tượng trong cuộc sống nhưng chỉ ở bề mặt, không phải ở chiều sâu của chúng. Năm mươi độ dưới không là dấu hiệu báo rằng có thể nhiệt độ sẽ xuống hơn tám mươi độ dưới không. Điều này chỉ gây ra ấn tượng với người đàn ông là trời rất lạnh và khó chịu và tất cả chỉ có vậy thôi. Điều này không làm cho người đàn ông suy tư về sự yếu ớt của con người, một sinh vật chịu ảnh hưởng của nhiệt độ và về sự yếu ớt nói chung của loài người, khi chỉ có thể sống được trong giới hạn hạn hẹp của nóng và lạnh và do đó, không giúp cho người đàn ông nghĩ về phạm vi dựa trên phỏng đoán của sự tồn tại và vị trí của con người trong vũ trụ. Năm mươi độ âm nghĩa là cái lạnh của băng giá sẽ cắn chích, làm thương tổn cơ thể và do đó, cơ thể phải được bảo vệ bằng găng tay đặc biệt, bằng mũ có nắp che tai, bằng giày đế bẹt làm bằng da mềm, cùng bít tất dày cộm. Năm mươi độ âm đối với anh rõ ràng chỉ là năm mươi độ âm. Điều đó chẳng là điều gì hơn, kể cả một ý nghĩ về nó cũng chẳng bao giờ đi vào đầu anh.
Khi tiếp tục bước đi, anh trầm lặng nhổ nước bọt. Có tiếng nổ đanh, răng rắc làm anh giật mình. Anh lại nhổ. Và lại một lần nữa, trước khi rơi xuống tuyết, nước bọt đã kêu nổ răng rắc trong không khí. Rất có thể trời lạnh hơn năm mươi độ dưới không nhưng lạnh hơn bao nhiêu độ anh không biết. Nhưng nhiệt độ không là vấn đề. Anh sẽ đi về hướng đường mòn gần nhánh trái con suối Henderson mà những người bạn đồng hành vừa đi. Các bạn anh đã đi trước, băng qua dải đất cao chạy ra từ vùng đất có con suối Indian, trong khi đó anh đi theo một lối mòn vòng khác để xem có khả năng kiếm được củi quanh con suối chảy ra từ các đảo cây vân sam ở vùng có đường mòn Yukon này hay không. Anh sẽ đến trại lúc 6 giờ, đúng là lúc đó hơi tối một chút nhưng các bạn anh sẽ có ở đó, lửa sẽ được nhóm lên và bữa ăn tối nóng ấm sẽ được bày ra. Nhớ đến bữa ăn trưa, anh ấn tay vào một cái bó nhô lên từ phía trong áo khoác. Bó này lại nằm bên trong áo sơmi, được gói trong chiếc khăn tay và nằm dính sát vào da anh. Anh hài lòng mỉm cười với chính mình khi nghĩ đến những cái bánh nướng mềm này, mỗi miếng đều không có giấy gói và được tẩm trong mỡ heo muối và còn gắn một lát heo muối chiên lớn.
Anh lao vào dưới tán những cây vân sam lớn, chắc khỏe. Lối mòn rất mờ. Một feet tuyết đã rơi xuống kể từ khi chiếc xe trượt tuyết cuối cùng đi qua, và anh vui vì anh không có xe trượt tuyết và đèn lữ hành. Thực tế anh chẳng mang theo gì trừ bữa trưa được gói trong chiếc khăn tay. Tuy nhiên, anh ngạc nhiên vì lạnh. Trời thực sự lạnh, anh kết luận, khi anh xoa hai xương gò má và mũi đang tê cóng bằng tay đeo găng. Anh có hàm râu quai nón ấm áp nhưng chúng không đủ che chắn hai gò má cao và cái mũi xăng xái nhô ra giữa khí trời băng giá.
Sau gót chân người đàn ông là một con chó lon ton chạy theo. Đó là con chó Eskimo bản địa, to lớn, một con chó giống lai chó sói hoàn hảo, lông xám và không khác người anh em của nó là sói hoang về hình dáng và tính khí. Con chó có ấn tượng mạnh trước cái lạnh kinh khủng. Bản năng của nó kể cho nó nghe một câu chuyện có nhiều sự thật hơn câu chuyện được kể với người đàn ông qua chính những suy xét, phản ứng của anh ta trước cái lạnh. Thực tế, trời không chỉ lạnh hơn năm mươi độ âm; trời lạnh hơn sáu mươi độ, hơn bảy mươi độ âm. Trời lạnh bảy mươi lăm độ dưới không. Vì nhiệt độ đã hơn điểm đông là ba mươi hai độ nên nó là dấu hiệu báo rằng nhiệt độ có thể xuống đến một trăm lẻ bảy độ âm. Con chó không biết gì về nhiệt kế. Có lẽ, não bộ của nó không có ý thức sắc bén về tình trạng lạnh lẽo như não bộ người đàn ông. Nhưng con chó có bản năng của nó. Nó đang trải nghiệm sự nhận biết mơ hồ nhưng sắc lạnh và điều này bám lấy nó, làm nó len lén bám theo gót người đàn ông và làm nó chất vấn nhiều về mỗi cử động bất thường của anh như thể muốn anh đi về trại hoặc tìm một chỗ nào đó để nhóm lửa. Con chó đã từng thích thú với lửa và nó cần lửa, nếu không có lửa, nó sẽ đào tuyết và nằm cuộn tròn ủ ấm, tránh giá lạnh trong không khí.
Những bọt nước nhỏ li ti do nó thở ra đóng băng và bám vào bộ lông với những hạt băng tròn đều, đặc biệt là bám vào cằm, vào mõm; lông mi nó cũng trắng toát vì những hạt băng như pha lê đó. Râu quai nón ria mép của người đàn ông cũng đóng băng, nhưng dày đặc hơn, những hạt băng này càng dày thêm sau từng hơi thở ấm và ẩm ướt mà anh thở ra. Ngoài ra, người đàn ông còn đang nhai thuốc lá và cái mõm băng bám chặt cứng vào hai môi anh, đến nỗi anh không thể hả miệng để phun nhổ nước ra. Kết cục là hàm râu ở cằm có màu pha lê và cứng như hổ phách càng dài ra thêm. Nếu anh ngã xuống, cái mõm băng này sẽ vỡ ra như thủy tinh, thành những mảnh giòn. Nhưng anh không màng chuyện lặt vặt. Đó là hình phạt mà người thích nhai thuốc lá ở vùng đất này phải chịu và anh đã trải qua hai đợt lạnh. Anh biết chúng không lạnh như thế này nhưng nhiệt kế ở khu vực Sixty Mile đo được năm mươi độ âm và năm mươi lăm độ âm.
Anh tiếp tục đi liền một mạch nhiều dặm xuyên qua một dải rừng bằng phẳng, băng qua một nguồn suối rộng, phẳng rồi đổ xuống, đi dọc theo lòng của một con suối nhỏ đã đóng băng. Đó là suối Henderson và anh biết là anh còn cách ngã ba con suối này mười dặm. Anh nhìn đồng hồ đeo tay. Đã mười giờ. Anh đang đi bốn dặm một giờ và anh ước đoán rằng anh sẽ tới ngã ba suối lúc mười hai giờ rưỡi. Anh quyết định sẽ tưởng thưởng cho sự kiện ấy bằng việc ăn trưa ở đó.
Con chó vẫn đi theo sau gót anh, cụp tai xuống chán nản, khi thấy người đàn ông đi vung vẩy dọc theo lòng suối. Vệt mà chiếc xe trượt tuyết đi qua trước đây rất mờ nhạt, nhiều lớp tuyết đã phủ che dấu vết của xe mới đi qua gần nhất. Cả tháng rồi, không có ai đi ngược xuôi trong lòng con suối tĩnh lặng này. Người đàn ông vững chãi bước tiếp. Người đàn ông không nghĩ ngợi gì nhiều và nhất là anh chẳng có gì để nghĩ suy trừ việc anh sẽ ăn trưa ở ngã ba suối và anh sẽ tới trại gặp những người bạn đồng hành lúc 6 giờ. Chẳng có ai để chuyện trò, mà ở đó, chuyện trò cũng chẳng được vì cái mõm băng trên miệng anh. Do vậy, anh tẻ nhạt nhai thuốc lá và làm dài thêm bộ râu cứng như hổ phách.
Thi thoảng, cái ý nghĩ là trời rất lạnh lặp đi lặp lại trong anh, rằng anh chưa bao giờ trải qua cái lạnh như vậy. Khi bước đi, anh lấy mu bàn tay đang đeo găng xoa hai gò má và mũi. Anh làm điều đó một cách vô thức, thỉnh thoảng đổi tay. Anh cứ xoa nhưng hễ ngừng tay thì hai gò má liền trở nên tê cóng, và chóp mũi cũng thế. Anh chắc là hai má anh sẽ bị đóng băng, anh biết vậy, và anh thấy nuối tiếc là anh đã không trang bị cho mình nắp trùm mũi mang trong trời lạnh, loại có nhãn hiệu Bud. Một cái nắp như thế sẽ trùm luôn cả hai má và bảo vệ chúng. Nhưng sau rốt, thiếu nó cũng chẳng sao cả. Hai má đóng băng thì sao? Chỉ một chút khó chịu thôi, không có gì nghiêm trọng cả.
Mặc dù đầu óc anh trống rỗng, không có ý nghĩ nào nhưng anh là người rất tinh mắt. Anh quan sát những thay đổi ở con suối với những đoạn uốn cong, những đống gỗ và luôn sắc lém dòm ngó nơi anh đang đặt chân. Lúc đi đến một đoạn suối uốn cong, anh giật mình như một con ngựa bị giật mình và đi vòng lại nơi anh đã đi, rồi bước lui lại nhiều bước dọc theo lòng suối. Anh biết con suối bị đóng băng đến tận đáy, vì không có con suối nào có thể còn nước chảy trong mùa đông vô cùng lạnh lẽo này nhưng anh cũng biết vẫn còn những con suối chảy xuống róc rách từ các sườn đồi, chảy dưới lớp tuyết hoặc dưới lớp băng đóng trên bề mặt của nó. Anh biết những đợt lạnh kinh khủng cũng không bao giờ làm đóng băng những con suối này, và anh cũng biết sự nguy hiểm của chúng. Chúng là những cái bẫy. Chúng có những hố nước dưới lớp tuyết có thể sâu hai, ba feet. Thi thoảng, có những lớp băng dày chừng nửa inch phủ trên các hố này rồi trên đó là một lớp tuyết. Thi thoảng, phía trên là một lớp nước, dưới đó là lớp băng mỏng, do đó, khi bị sụp hố người ta phải vùng vẫy một lát, có khi bị ướt tới thắt lưng.
Đó là lý do tại sao anh hoảng hốt giật mình. Anh đã cảm nhận được sự đàn hồi và nghe được tiếng răng rắc của lớp băng nằm dưới lớp tuyết. Nếu để chân bị ướt trong nhiệt độ như thế này, có nghĩa là sẽ rắc rối và nguy hiểm hay ít ra cũng có nghĩa là bị chậm trễ, vì anh buộc phải dừng lại và nhóm lửa và trong sự bảo vệ của lửa, anh sẽ phải để chân trần trong khi hong bít tất và giày đế bẹt. Anh đứng ngắm nghía lòng suối và hai bờ của nó và cho rằng dòng nước chảy dọc theo phía bên phải. Suy tư một lát, anh xoa mũi và hai gò má sau đó đi về phía trái, bước chân rón rén và ướm chân trước khi bước một bước. Khi đã tránh được sự nguy hiểm, anh nhai một miếng thuốc lá tươi thơm và tiếp tục bước đi với dáng dè dặt.
Trong hành trình hai giờ tiếp sau đó, anh gặp rất nhiều cái bẫy tương tự. Thường thì tuyết trên các hố này có hình trũng, màu cocain để báo rằng có nguy hiểm. Tuy nhiên, có lần anh suýt bị sụp hố và có lần, nghi ngờ có sự nguy hiểm, anh thúc con chó đi trước. Con chó không muốn đi. Nó chần chừ cho đến khi người đàn ông đẩy nó đi và sau đó, nó phóng nhanh qua mặt phẳng trắng xóa, nhẵn nhụi. Bỗng nhiên nó lùi lại, đi loạng choạng về một phía rồi đứng yên lại. Hai chân trước và hai chân sau của nó đã bị ướt và gần như lập tức nước bám vào chúng bị đóng băng. Nó nhanh chóng gắng liếm băng ra khỏi chân rồi nằm xuống tuyết, bắt đầu cắn băng ra khỏi những kẽ chân. Đó là hành động của bản năng. Để băng bám vào chân và kẽ chân có nghĩa là sẽ bị đau đớn. Nó không biết điều đó, nó chỉ tuân theo lời gợi ý huyền bí dâng lên từ bản năng sâu thẳm của sự tồn tại. Nhưng người đàn ông hiểu và đã có được giải pháp cho vấn đề và anh tháo găng ở tay phải ra, giúp con chó bằng cách gỡ những mảng băng ra khỏi tứ chi nó. Anh phơi các ngón tay ra chưa đầy một phút và ngạc nhiên khi thấy chúng nhanh chóng bị tê cóng. Trời chắc rất lạnh. Anh nhanh tay mang găng tay lại và ào ạt đánh tay đó vào ngực.
Vào lúc 12 giờ, ngày trở nên sáng rõ nhất. Song mặt trời còn ở rất xa về phía nam trong hành trình mùa đông để làm sáng sủa chân trời. Mặt đất phình to ngăn cách nó và con suối Henderson, nơi người đàn ông đang bước dưới bầu trời sáng sủa lúc xế chiều và không thấy có bóng dáng ai cả. Đúng 12 giờ rưỡi, anh đi đến ngã ba của con suối. Anh bằng lòng với tốc độ anh đã đi được. Nếu giữ được tốc độ này, anh chắc chắn sẽ đến trại gặp các bạn anh lúc 6 giờ. Anh mở nút áo khoác và áo sơmi rồi lấy thức ăn ra. Hành động này diễn ra chưa đầy một phần tư của một phút song khoảnh khắc ngắn ngủn đó đã làm tê cóng những ngón tay anh do anh đã tháo găng. Anh không mang lại găng tay mà thay vào đó, đập mạnh, nhanh nhiều lần các ngón tay vào chân mình. Sau đó, anh ngồi xuống một khúc gỗ phủ tuyết để ăn. Sự đau đớn do đập ngón tay vào chân hết đi nhanh đến nỗi làm anh thảng thốt. Anh chẳng có cơ may để cắn một miếng bánh nướng. Anh lại đập các ngón tay rồi mang lại găng vào, rút găng của tay kia để cầm thức ăn. Anh cố ngậm thức ăn nhưng mõm băng đã ngăn cản anh. Anh đã quên nhóm lửa và làm giảm bớt lạnh đi. Anh chậc lưỡi vì sự ngớ ngẩn của mình và khi đang chậc lưỡi, anh nhận ra rằng sự tê cóng đã bò vào các ngón tay trần. Cũng vậy, anh thấy sự tê cóng ở các ngón chân khi anh mới ngồi xuống cũng đã tan biến đi. Anh tự hỏi không biết chúng ấm hay bị tê cóng. Anh cử động chúng ở trong giày và thấy rằng chúng đã bị cóng.
Anh vội vã mang găng tay trở lại và đứng dậy. Anh có chút sợ hãi. Anh dậm dậm chân lên xuống cho đến khi thấy chân đau trở lại. Trời chắc chắn đang rất lạnh, anh nghĩ. Người đàn ông ở suối Sulphur đã nói sự thật khi bảo rằng ở vùng đất này thi thoảng trời sẽ lạnh như thế nào. Và anh đã cười ông ấy! Cười để nói là người ta không phải ai cũng chắc về mọi thứ. Không có sai lầm trong lời ông ấy nói, trời rất lạnh. Anh bước tới bước lui, dậm chân và vung tay cho đến khi cơ thể lấy lại hơi ấm. Sau đó anh lấy diêm ra và tiến hành nhóm lửa. Từ trong một lùm cây nhỏ, nơi nước lụt của mùa xuân năm trước đẩy lên những cành củi khô, anh nhặt củi để nhóm lửa. Cẩn thận với từng động tác nhỏ nhất, anh sớm nhóm được một ngọn lửa cháy bùng và nhờ nó, anh làm mõm băng trên mặt tan đi và nhờ sự bảo vệ của ngọn lửa, anh ăn được bánh nướng. Trong chốc lát, sự lạnh giá của không gian quanh anh bị đánh bại. Con chó hài lòng nằm cạnh lửa, gần để đủ ấm và xa đủ để khỏi bị cháy xém lông.
Khi ăn xong, anh nhét thuốc lá vào tẩu, hút và thưởng thức. Sau đó, anh mang găng vào, đội mũ có nắp che tai chặt, kín kẽ và đi theo lối mòn là nhánh trái lòng con suối. Con chó thất vọng, quay đầu quyến luyến ngọn lửa. Người đàn ông đã không biết lạnh. Có lẽ, tất cả các thế hệ tổ tiên anh đã lãng quên đi cái lạnh, mà là lạnh thật sự, tới một trăm lẻ bảy độ dưới điểm đóng băng. Nhưng con chó biết, tất cả tổ tiên nó biết và nó thừa kế được sự hiểu biết đó. Nó biết rằng, thật không hay khi phải bước đi ngoài trời trong cái lạnh kinh khiếp này. Đây là lúc ấm cúng nằm trong một cái hang dưới tuyết và đợi một màn mây kéo ngang qua bề mặt không gian mà từ nơi đó cái lạnh tràn tới. Mặt khác, cũng chẳng có tình cảm nồng ấm nào giữa con chó và người đàn ông. Con chó là nô lệ cặm cụi của người đàn ông và sự vuốt ve duy nhất mà nó nhận được là sự vuốt ve của cái roi và âm thanh vun vút, đầy dọa nạt phát ra từ dây buộc roi. Do đó, con chó không cố gắng truyền đạt sự lo lắng của nó tới người đàn ông. Nó không quan tâm tới lợi ích của anh, nó chỉ khát khao, mong ước được trở lại ngồi bên lửa. Nhưng người đàn ông nạt nộ và nói với nó bằng âm thanh của dây buộc roi và con chó lóc cóc đi theo sau gót của anh.
Người đàn ông lấy một nhúm thuốc lá nhai và bắt đầu làm cho mình có một hàm râu mới cứng như hổ phách. Ngoài ra hơi thở ẩm ướt của anh nhanh chóng đóng lại thành những hạt băng trên râu quai nón, lông mày và lông mi. Hình như không có nhiều hố trên nhánh trái của con suối Henderson và trong hơn nửa giờ đi, anh không thấy bất kỳ dấu vết nào của chúng. Nhưng chuyện đã xảy ra. Tại một chỗ nọ, nơi không có một dấu hiệu nào, chỉ có tuyết mềm, phẳng phiu phía trên thông báo là phía dưới sẽ rắn chắc nhưng người đàn ông đã bị sụp hố. Nó không sâu lắm. Anh bị ướt đến đầu gối trước khi lảo đảo rồi đứng yên lại được. Anh giận dữ và to tiếng chửi rủa là mình thiếu may mắn. Anh đã hy vọng mình sẽ đi tới trại gặp các bạn mình lúc 6 giờ nhưng như thế này sẽ làm anh trễ đi một giờ vì anh sẽ phải nhóm lửa và hong khô đồ đi ở chân. Ở nhiệt độ thấp như thế này, nhóm lửa là điều cấp bách, anh hiểu rất rõ điều đó và anh quay người về phía bờ suối và leo lên. Trên bờ, bừa bộn dưới những gốc cây nhỏ nhưng chắc khỏe là những cành, khúc củi khô nhỏ do nước lụt năm trước đẩy lên nhưng cũng có những nhành củi khô bự hơn và có cả cỏ khô chắc có từ mùa lụt trước. Anh gom nhiều mẩu củi lớn xếp trên tuyết. Làm vậy để có nền nhóm lửa và ngăn không cho lửa bị tắt ngấm trong tuyết do tuyết sẽ tan ra thành nước khi có lửa nóng. Anh có được lửa bằng cách quẹt que diêm vào một mẩu vỏ cây bulô nhỏ lấy ra từ túi áo. Que diêm bừng cháy còn nhanh hơn khi đốt giấy. Đặt que diêm cháy xuống nền củi, anh lấy những mớ cỏ khô và những mẩu củi khô nhỏ nhất cho vào.
Anh cẩn thận và chầm chậm nhóm lửa, hiểu sâu sắc sự nguy hiểm. Từ từ, khi lửa đã cháy mạnh hơn, anh nhặt củi lớn cho vào. Anh ngồi chồm hổm trên tuyết, nhặt củi nằm bừa bộn dưới gốc cây và thêm thẳng vào lửa. Anh biết là không được sai lầm khi nhiệt độ ở mức 75 độ âm, người ta không được sai trong cố gắng đầu tiên lúc nhóm lửa, hơn thế, khi chân đã bị ướt. Nếu chân khô và nhóm lửa không thành, anh có thể chạy dọc theo lòng suối nửa dặm và lấy lại tuần hoàn. Nhưng hệ tuần hoàn khi bị ướt và chân bị đóng băng không thể hồi phục được bằng cách chạy khi nhiệt độ là 75 độ âm. Dù cho anh có chạy nhanh bao nhiêu, chân ướt sẽ càng đóng băng cứng hơn.
Người đàn ông hiểu rõ những điều đó. Người đàn ông kỳ cựu, từng trải ở vùng suối Sulphur đã nói với anh về điều đó mùa thu trước, giờ đây, anh đánh giá cao lời khuyên ấy. Chân anh gần như mất hết cảm giác. Để nhóm lửa, anh đã buộc phải tháo găng tay ra và các ngón tay anh đã nhanh chóng trở nên tê cóng. Việc bước đi với tốc độ bốn dặm một giờ giúp cho tim anh đẩy máu đi khắp bề mặt cơ thể và đến tứ chi. Nhưng ngay khi anh dừng bước, việc đẩy máu đi cũng dừng lại. Cái lạnh của không gian đập vào phần đỉnh không được bảo vệ của trái đất và anh đang ở trên cái đỉnh không được bảo vệ đó, đã phải nhận đủ uy lực của cú đập. Máu trong cơ thể anh lùi lại vì sợ hãi trước nó. Máu còn sống, như con chó và như con chó, nó muốn chạy trốn và che chắn lại, tránh cái lạnh kinh khiếp. Miễn là anh bước bốn dặm một giờ, thì dù muốn dù không, anh sẽ bơm máu được đi khắp cơ thể; nhưng giờ đây máu đã chu chuyển yếu dần và đã chìm đắm vào những nơi sâu thẳm của cơ thể. Tứ chi là các bộ phận đầu tiên cảm nhận được sự vắng mặt của máu. Hai chân ướt của anh sẽ bị đóng băng nhanh hơn, những ngón tay trần sẽ tê cóng nhanh hơn dẫu lúc này chúng chưa bắt đầu đóng băng. Mũi và hai má đang bị đóng băng, trong khi da dẻ khắp cơ thể tê cóng như thể bị mất máu.
Nhưng anh đã được an toàn. Các ngón chân, mũi và hai má chỉ mới chạm vào sự tê cóng vì lửa đã bắt đầu bùng cháy. Anh lấy các ngón tay để cho thêm củi nhỏ vào lửa. Trong một phút tới, anh sẽ có thể cử động cổ tay để cho các nhánh củi lớn vào, và sau đó, anh sẽ có thể rút đồ đi ở chân ra và trong khi chờ nó khô, anh sẽ để chân trần ấm áp bên lửa, xoa bóp chúng ngay, tất nhiên là bằng tuyết. Lửa đã cháy rực. Anh đã an toàn. Anh nhớ lại lời khuyên của tay kỳ cựu lúc ở suối Sulphur và mỉm cười. Tay kỳ cựu này đã nghiêm túc đưa ra một thông lệ là không ai nên đi một mình ở vùng Klondike ở nhiệt độ dưới 50 độ âm. Vâng, anh đã ở đây, đã gặp tai ương, đã một mình và đã bảo vệ được mình. Anh nghĩ, một số tay dù kỳ cựu vẫn còn khá đàn bà. Tất cả mọi điều người ta phải nhớ là giữ bình tĩnh và anh đã làm được. Bất cứ ai là đàn ông đều có thể đi một mình. Nhưng thật kinh ngạc, hai má và mũi anh đóng băng quá nhanh. Anh không nghĩ là các ngón tay chết đi trong một khoảng thời gian quá ngắn. Chúng đã chết vì anh khó có thể khép chúng lại với nhau khi gắp một nhánh củi nhỏ và dường như chúng đã tách rời khỏi cơ thể anh. Khi anh chạm vào một khúc củi, anh phải nhìn và xem liệu anh có nắm giữ chúng được hay không. Những khúc củi nhỏ đã rơi rớt ngay giữa anh và các ngón tay.
Mọi việc được đong đếm từng tí một. Có ngọn lửa bập bùng, tí tách nhảy múa nghĩa là có sự sống đầy hứa hẹn. Anh bắt đầu cởi giày đế bẹt ra. Chúng bị băng bám đầy; đôi bít tất Đức như hai cái vỏ làm bằng sắt dài tới tận gối; hai sợi dây cột giày không khác hai cái roi thép được thắt cột như bởi có tai họa lớn nào đó. Trong phút chốc anh lấy các ngón tay tê cóng giật mạnh các sợi dây giày ra nhưng sau đó, hiểu được sự ngu xuẩn của việc ấy, anh rút dao trong vỏ ra.
Nhưng trước khi anh có thể cắt dây giày, tai ương đã ập đến. Đó là do lỗi của chính anh hay đúng hơn là do sai lầm của anh. Anh không nên nhóm lửa dưới một tán cây nhiều cành. Anh nên nhóm lửa ngoài trời. Nhưng nhóm dưới tán cây giúp anh nhặt củi và đưa thẳng vào lửa dễ dàng hơn. Lúc này trên những nhánh to của cái cây anh đang nhóm lửa phía dưới mang tuyết trĩu nặng. Đã nhiều tuần rồi không có gió, và mỗi cành tuyết nặng trịch bám đầy. Mỗi lần nhặt củi anh đều thể hiện sự âu lo về cái cây - một sự lo âu nhỏ thôi, trong chừng mực của sự quan tâm của anh nhưng cũng đủ cho thấy điều đó là đúng, có thể báo trước tai họa. Trên một nhành trên cao của cái cây có tuyết nặng trĩu trịt. Tuyết trên cành này đổ xuống làm trĩu nặng những cành bên dưới. Tiến trình này cứ thế tiếp tục, lan tỏa và ảnh hưởng đến cả cây. Nó như một trận tuyết lở và đổ xuống người đàn ông và lửa, không lời cảnh báo, làm lửa tắt ngúm! Nơi là đống lửa chỉ còn lại một màu lạnh ngắt và tuyết lỗ chỗ.
Người đàn ông sửng sốt, như thể anh vừa nghe lời kết án tử hình chính mình. Trong thoáng chốc, anh đứng sững nhìn nơi lửa từng cháy. Sau đó anh trở nên câm lặng. Có lẽ tay kỳ cựu, từng trải ở khu vực suối Sulphur đã nói đúng. Nếu anh có thêm một người bạn đồng hành, anh có lẽ đã không thấy nguy ngập. Người đồng hành cùng anh sẽ nhóm lại lửa. Vâng, cần nhóm lại lửa và lần thứ hai này không được mắc sai lầm. Ngay cho dù anh thành công, anh gần như có khả năng mất vài ngón chân. Giờ đây chân anh đã bị đóng băng tệ hại và phải mất thời gian trước khi đống lửa thứ hai bùng cháy.
Đó là những ý nghĩ của anh nhưng anh không ngồi để ngẫm ngợi. Chúng chỉ trôi qua đầu anh vì anh rất bận rộn. Anh làm một cái nền mới để nhóm lửa, lần này là ở ngoài trời, nơi không có cái cây phản nghịch nào đổ tuyết xuống dập tắt lửa. Tiếp đến, anh gom rêu và cỏ khô cùng những cây củi nhỏ do nước lụt năm trước đẩy lên. Anh không thể khép các ngón tay lại để kẹp và kéo củi nhưng anh có thể tập trung chúng lại bằng lòng bàn tay. Bằng cách này, anh đã phải gom cả củi mục và rêu xanh, những thứ không như mong muốn nhưng là những thứ tốt nhất mà anh có thể gom được. Anh gom nhặt một cách có phương pháp, thậm chí còn gom được cả một ôm những nhành củi lớn hơn để dùng khi lửa đã bén cháy mạnh. Trong khi đó, con chó ngồi và nhìn anh bằng đôi mắt đầy khát khao, mong đợi, vì nó thấy anh như là người cung cấp lửa, và đống củi đã dần dần hình thành.
Khi tất cả đã sẵn sàng, người đàn ông lục lọi trong túi để tìm miếng vỏ cây gỗ bulô thứ hai. Anh biết là nó ở đó dù không thể cảm nhận được bằng các ngón tay nhưng anh có thể nghe được âm thanh sột soạt khô giòn khi anh sờ soạng nó. Cố gắng như anh muốn nhưng anh chẳng thể cầm nắm được nó. Cùng lúc đó, trong ý thức của mình, mỗi lúc chân anh càng đóng băng hơn. Ý nghĩ này muốn đưa anh vào sự bấn loạn nhưng anh chống lại nó và giữ im lặng, anh lấy răng kéo mạnh hai găng tay vào, giũ hai cánh tay tới lui, đập hai tay vào hai bên hông bằng tất cả sức lực của mình. Anh ngồi để làm điều đó, đứng để làm điều đó và trong khi ấy, con chó ngồi trên tuyết, cái đuôi như đuôi chó sói uốn cong lại, ấm áp che hai chân trước, hai tai như tai chó sói sắc lém chăm chú hướng về phía trước khi nó quan sát người đàn ông. Trong khi đập tay và giũ cánh tay, người đàn ông thấy trào dâng lòng ghen tị khi thấy con chó được bộ lông tự nhiên che chắn ấm áp và an toàn.
Một lát sau, người đàn ông cảm nhận được những dấu hiệu đầu tiên của việc mất cảm giác ở những ngón tay anh đang đập vào hông. Tình trạng hơi tê tê đã trở nên nặng hơn rồi trở thành đau nhức, châm chích nhưng anh bằng lòng đón nhận điều đó. Anh tước cởi găng ra khỏi tay phải và lục lọi miếng vỏ cây bulô. Những ngón tay trần nhanh chóng bị tê cóng. Sau đó, anh lấy được một bó diêm lưu huỳnh ra. Nhưng cái lạnh khủng khiếp đã xua đuổi sự sống ra khỏi các ngón tay anh. Trong cố gắng để tách một que diêm ra khỏi bó diêm, anh làm cả bó rơi xuống tuyết. Anh cố nhặt nó lên nhưng thất bại. Những ngón tay đã chết của anh không thể sờ hoặc nắm được. Anh rất cẩn trọng. Anh xua khỏi đầu những ý nghĩ rằng chân, tay và mũi đang bị đóng băng, đem tất cả tinh thần tập trung vào những que diêm. Anh quan sát, dùng thị giác thay cho xúc giác và khi thấy những ngón tay mình đã ở bên cạnh bó diêm, anh khép các ngón tay lại - đó là, anh muốn khép chúng lại nhưng vì găng đã tháo ra và do vậy, các ngón tay không vâng lệnh anh. Anh đeo găng tay phải lại và đập mạnh tay vào gối. Sau đó, bằng hai tay có găng, anh thu bó diêm, có cả tuyết nữa, vào lòng. Song, anh chưa thấy yên lòng.
Sau một vài thao tác, anh xoay xở để giữ bó diêm giữa hai cổ tay có găng. Bằng cách đó anh đưa nó lên miệng. Băng kêu răng rắc khi anh cố sức mở miệng ra. Anh kéo hàm dưới xuống, cong môi trên ra và dùng hàm răng trên để tách một que diêm ra khỏi bó diêm. Anh tách được nhưng que diêm lại rơi xuống lòng anh. Anh chưa yên lòng. Anh không thể nhặt nó lên được. Sau đó, anh nghĩ ra cách khác. Anh lấy răng cắn que diêm để đưa nó lên và quẹt vào vải ống quần. Anh quẹt hai mươi lần trước khi nó bật cháy. Khi đó, anh đưa que diêm cháy đang cắn vào những cành củi bulô anh gom. Nhưng mùi lưu huỳnh cháy xông vào hai lỗ mũi và vào phổi anh, làm anh ho hục hặc. Que diêm rớt xuống tuyết và tắt ngúm.
Người đàn ông kỳ cựu ở vùng suối Sulphur đã đúng, anh nghĩ ngợi trong khoảnh khắc để chế ngự sự tuyệt vọng, rằng: ở nhiệt độ dưới 50 độ âm, người ta cần đi với một người đồng hành. Anh đập hai tay nhưng thất bại trong việc kích thích các cảm giác. Đột nhiên anh dùng răng tuốt găng hai tay ra. Anh lấy hai cổ tay chộp bó diêm. Các cơ ở cánh tay anh chưa đông cứng lại, do đó có thể giúp anh ấn chặt bó diêm lại giữa hai cổ tay. Sau đó anh quẹt nó vào ống quần. Nó cháy, bảy mươi que cùng cháy. Không có ngọn gió nào, do đó, chúng không bị thổi tắt. Anh nghiêng đầu sang một bên để tránh mùi khói diêm và đưa bó diêm đang cháy vào những cành củi bulô. Khi làm được điều đó, anh cảm nhận được là các ngón tay anh có cảm giác trở lại. Thịt da anh đang bừng chuyển động. Anh có thể phát hiện ra điều đó bằng bản năng. Anh có thể cảm nhận nó có ở sâu dưới da thịt. Rồi sự bừng chuyển của các cảm giác làm anh thấy đau nhức. Và anh ráng chịu đựng, vụng về cầm bó diêm đang cháy vụng về đưa vào những cành củi nhưng nó không cháy ngay vì hai tay với các cảm giác đang bừng chuyển động đã cản trở và đã hút gần hết ngọn lửa.
Cuối cùng, khi không còn chịu đựng nổi nữa, anh thả tay ra. Bó diêm đang cháy rơi xuống tuyết, kêu xèo xèo nhưng những cành củi đã cháy. Anh bắt đầu cho cỏ khô và những cành củi nhỏ nhất vào lửa. Anh không thể nhặt và chọn, vì anh phải đưa củi và cỏ lên bằng hai cổ tay. Anh lấy răng để cắn những chỗ mục và rêu xanh bám vào chúng, trong chừng mực anh có thể cắn. Anh lúng túng nhưng cẩn thận với ngọn lửa. Nó có nghĩa là sự sống và nó không được tắt đi. Sự rút lui của máu trên bề mặt thân thể anh giờ đây bắt đầu làm anh run sợ và trở nên lúng ta lúng túng. Một mẩu rêu xanh lớn nằm vươn trên ngọn lửa nhỏ. Anh cố lấy các ngón tay đẩy nó ra nhưng thân hình đang run rẩy của anh đã làm anh đẩy nó quá mạnh, và do đó, anh đã làm vỡ tâm của ngọn lửa nhỏ, cỏ khô và những cành củi nhỏ đang cháy bị vương vãi. Anh cố đẩy chúng trở lại với nhau nhưng mặc dù anh căng người ra cố gắng, củi lửa vẫn vương vãi trong sự bất lực. Từng cành củi ngùn ngùn bốc một luồng khói rồi tắt ngấm. Người nhóm lửa đã thất bại. Khi đờ đẫn nhìn quanh mình, mắt anh dừng lại ở con chó đang nằm cạnh củi lửa đã tắt trên tuyết bất động, co ro, nhẹ nâng một chân trước lên, rồi nâng chân kia, nhấp nhỏm đầu, cổ lên xuống trên hai chân trước, đầy ước ao.
Dáng con chó làm cho đầu óc anh nảy ra một ý nghĩ đầy kích động. Anh nhớ lại câu chuyện về một người đàn ông bị mắc kẹt trong một trận bão tuyết dữ dội đã giết con bò đực non rồi bò vào trong xác nó, nhờ đó, thoát chết. Anh sẽ giết con chó và vùi hai tay vào thi thể ấm áp của nó cho tới khi không còn bị tê cóng. Sau đó, anh sẽ có thể nhóm lại lửa. Anh nói với con chó, gọi nó lại nhưng có sự sợ hãi lạ lùng trong giọng mình, làm con chó run rẩy, vì nó chưa hề nghe người đàn ông nói với nó bằng giọng như vậy. Đã có vấn đề rồi và bản năng hoài nghi tự nhiên báo cho nó có nguy hiểm - nó không biết nguy hiểm gì nhưng ở nơi nào đó, bằng cách này hay cách khác, trong não của nó lóe lên sự thông hiểu về người đàn ông. Nó cụp hai tai xuống khi nghe giọng nói của người đàn ông và dáng vẻ âu lo, co ro, lúm khúm và sự nhấp nhỏm lên xuống của hai chân trước trở nên nhanh hơn, rõ hơn; nhưng nó không tiến tới phía người đàn ông. Anh chống tay và quỳ gối bò tới con chó. Hình dáng lạ lùng này một lần nữa kích hoạt sự hoài nghi của nó và con chó rụt rè, len lén ẹo mình bỏ đi.
Người đàn ông ngồi xuống tuyết một lát và trở nên câm lặng. Sau đó anh lấy răng mang găng tay lại và đứng dậy. Anh liếc xuống chân ngay để chắc là anh đang đứng vì sự thiếu vắng cảm giác ở chân làm anh không cảm nhận được. Dáng đứng thẳng của anh đã bắt đầu xua tan đi những lớp mạng của sự ngờ vực trong đầu con chó, và khi anh nói dứt khoát, có âm thanh của dây buộc roi trong giọng mình, thì con chó thể hiện sự trung thành thường thấy của nó bằng việc đi về phía anh. Khi nó đi gần đến anh, người đàn ông mất bình tĩnh. Anh đưa hai cánh tay về phía con chó và anh đã trải qua một sự bất giác thực sự khi anh phát hiện ra rằng, hai tay anh chẳng còn có thể chộp được, cũng như chẳng thể cong gập lại và cũng chẳng có cảm giác ở những ngón tay. Trong chốc lát, anh đã quên mất rằng tay anh đã bị đông cứng và chúng càng lúc càng trở nên đông cứng. Tất cả những điều đó diễn ra rất nhanh và trước khi con chó bỏ chạy, anh lấy hai cánh tay đan chéo cơ thể con chó. Anh ngồi trên tuyết và bằng cách đó, anh giữ con chó trong khi nó gầm gừ, tru tréo và giãy nảy.
Nhưng đó là tất cả những gì anh có thể làm, giữ nó giữa hai cánh tay và ngồi ở đó. Anh thấy rằng anh chẳng thể giết được con chó. Không có cách nào để làm được điều đó. Với hai bàn tay đã bất lực, anh không thể rút và cầm dao từ vỏ dao cũng như không thể bóp cổ con chó. Anh thả nó ra và nó hoảng hồn bỏ chạy, đuôi cụp xuống và vẫn gầm gừ. Nó dừng lại cách anh 40 feet và tò mò nhìn anh, hai tai dựng đứng lên. Người đàn ông nhìn xuống hai tay để xác định vị trí của chúng và thấy chúng đang lòng thòng ở cuối hai ống tay áo. Điều này gây tò mò cho anh, rằng người ta có thể dùng mắt để xác định hai tay họ ở đâu. Anh bắt đầu giũ hai cánh tay tới lui và đập hai tay đeo găng mạnh vào hai bên người. Anh đập năm phút, rất mạnh và tim anh đã bơm đủ máu cho khắp bề mặt cơ thể anh, làm anh hết run rẩy. Nhưng không có cảm giác nào trỗi dậy từ hai bàn tay. Anh có cảm giác là chúng như những trái cân thòng lòng ở hai ống tay áo nhưng khi anh cố chế ngự cảm giác đó thì không thấy gì.
Một sự sợ hãi mơ hồ nhưng đầy đè nén ập tới anh. Nỗi sợ hãi ngày càng nhanh chóng trở nên đắng cay khi anh thấy rằng vấn đề không chỉ còn là những ngón tay hay ngón chân bị đông cứng, không chỉ là việc mất tay, mất chân mà là vấn đề sống và chết đang có khả năng ập đến. Điều này làm anh hoảng loạn và anh quay người chạy xuống lòng suối, rồi chạy dọc theo lối mòn cũ mờ là lòng suối. Con chó cũng chạy theo anh. Anh mù mờ chạy, không định hướng, trong nỗi sợ hãi như thể anh chưa hề gặp trong đời mình. Dần dà, khi đã cày xới tuyết, anh bắt đầu nhìn thấy mọi vật trở lại hai bờ con suối, những đống gỗ cũ, những cây dương lá rung trụi lá và bầu trời. Việc chạy làm anh thấy khỏe hơn. Anh không còn run rẩy. Có lẽ, nên tiếp tục chạy, chân anh sẽ không còn bị đông cứng và hơn thế, nếu anh chạy đủ xa anh có thể đến được trại gặp các bạn đồng hành. Rất có thể anh sẽ bị chết vài ngón tay và ngón chân cùng vài phần trên mặt nhưng các bạn anh sẽ chăm sóc cho anh và giữ cho anh những phần còn lại của cơ thể khi anh đến đó. Cùng lúc đó, có một ý nghĩ khác hiện ra trong đầu anh, rằng anh sẽ chẳng bao giờ đến được trại và gặp các bạn; rằng trại còn cách xa rất nhiều dặm, rằng cơ thể anh đã bị đông cứng quá nhiều và anh sẽ bị cứng đơ rồi chết. Ý nghĩ này bị anh giữ chặt trong tâm tư và từ chối không xem xét nó. Thi thoảng nó trỗi dậy, đòi phải được lắng nghe nhưng anh nén chặt nó lại và cố nghĩ về những điều khác.
Anh thấy lạ là anh có thể chạy trên hai chân đã đông cứng đến nỗi anh không có cảm giác khi chúng chạm đất và không cảm nhận được sức nặng của cơ thể dồn xuống chúng. Anh thấy mình dường như đang lướt đi trên mặt đất và không có sự chạm dính vào đất. Anh từng thấy ở đâu đó có một Sao Thủy có cánh bay đi và tự hỏi không biết Sao Thủy có cảm giác như anh không khi nó lướt đi.
Giả thuyết là anh sẽ chạy đến trại và gặp các bạn có một sai lầm trong đó: anh thiếu sự chịu đựng. Nhiều lần anh vấp chân và cuối cùng anh lảo đảo, khuỵu xuống và té ngã. Khi cố đứng dậy, anh lại thất bại. Anh quyết định phải ngồi xuống và nghỉ, sau đó anh chỉ bước đi và sẽ chỉ bước đi mà thôi. Khi ngồi nghỉ và lấy hơi, anh nhận ra rằng anh đang có được cảm giác ấm áp và dễ chịu. Anh không còn run rẩy và thậm chí còn thấy có những cảm giác ấm áp ở lồng ngực và thân thể. Song, khi anh chạm vào mũi và hai má, anh thấy không có cảm giác. Chạy không làm cho chúng hết đông cứng, cũng không làm tan biến tình trạng đông cứng ở tay và chân. Sau đó, ý nghĩ rằng những phần bị đông cứng của cơ thể sẽ bị duỗi thẳng đơ ra và ập đến với anh. Anh cố nén ý nghĩ đó xuống, lãng quên nó và nghĩ tới điều khác; anh biết là nó sẽ gây ra cảm giác bấn loạn, và anh sợ cảm giác đó. Nhưng ý nghĩ ấy đã tự khẳng định và khăng khăng tồn tại, cho đến khi nó tạo ra một viễn cảnh rằng toàn bộ thân thể anh sẽ bị đông cứng. Thế là quá đủ và anh tiếp tục hoang dại chạy theo lòng con suối. Thi thoảng anh giảm tốc độ và đi bộ nhưng ý nghĩ rằng cơ thể anh sẽ bị cứng lại, duỗi đi làm anh lại chạy.
Trong lúc đó, con chó chạy theo, bám gót anh. Khi anh té ngã lần thứ hai, nó nguẩy đuôi lên phía hai chân trước và ngồi đối diện với anh, nhìn anh chú tâm và lo âu. Sự ấm áp và an toàn của con chó làm anh giận dữ và anh chửi nó cho đến khi nó cụp tai xuống. Lần này, sự run rẩy ập nhanh đến người đàn ông. Anh đang thất bại trong cuộc vật lộn với giá lạnh. Giá lạnh len vào người anh từ khắp phía. Ý nghĩ về tình trạng đó dồn đuổi anh nhưng anh chỉ chạy được không quá 100 feet nữa rồi lảo đảo và ngã chúi đầu xuống. Khi anh tỉnh lại, lấy hơi thở và sự bình tĩnh, anh ngồi dậy và giữ trong tâm trí ý niệm rằng anh đang chết cao thượng. Tuy nhiên, ý niệm ấy đã không đến với anh bằng ý nghĩa đó. Anh thấy anh đã ngu xuẩn chạy như một con gà đã bị cắt đầu - đó là sự so sánh diễn ra trong anh. Vâng, dù sao anh cũng sẽ bị bắt buộc đóng băng và anh cũng sẽ hài lòng đón nhận nó. Sự bình an mới mẻ này đã mơ hồ đến trong trạng thái nửa thức nửa mê. Anh nghĩ, thật là hay khi chết trong giấc ngủ. Nó như một liều thuốc tê. Bị đông cứng vì giá lạnh không tệ như người ta nghĩ. Còn có những cách chết tồi hơn.
Anh hình dung là các bạn anh sẽ tìm ra anh ngày hôm sau. Bỗng anh thấy chính anh đang cùng với họ đi dọc theo lòng suối để tìm chính mình và cũng vẫn đi với họ, anh đi theo một khúc cong và tìm thấy mình đang nằm trên tuyết. Anh không còn thuộc về mình nữa, bởi vì khi đó anh đã xuất linh hồn, đứng với các bạn và thấy chính anh trên tuyết. Trời rất lạnh, anh nghĩ. Khi anh trở lại Mỹ, anh sẽ nói với anh em họ hàng của anh trời đã lạnh như thế nào. Ý nghĩ của anh dạt sang tầm nhìn rộng xa của người đàn ông từng trải vùng suối Sulphur. Anh có thể nhìn thấy ông ấy rõ ràng, đang được sưởi ấm, thoải mái và đang ngậm tẩu.
“Anh nói đúng anh ạ, anh nói đúng”, người đàn ông nói với người từng trải ở vùng suối Sulphur.
Sau đó, người đàn ông chìm vào giấc ngủ đầy thư thái và hài lòng mà dường như anh chưa từng biết đến. Con chó ngồi đối diện với anh và chờ đợi. Ngày ngắn ngủi đã tàn bằng hoàng hôn kéo dài, chầm chậm. Không có dấu hiệu nào của một ngọn lửa đang được nhóm lên và ngoài điều đó, trong trải nghiệm của con chó, nó chưa bao giờ thấy có người nào ngồi như thế trên tuyết và không nhóm lửa. Khi hoàng hôn dần tắt, nỗi khát khao về một ngọn lửa bao trùm lấy nó, và nó nhổm hai chân trước lên cao, tru nhẹ, rồi cụp hai tai xuống đề phòng bị người đàn ông này la mắng. Nhưng người đàn ông vẫn im lặng. Sau đó con chó tru to hơn rồi nó bò tới sát người đàn ông và ngửi thấy mùi tử khí. Điều này làm nó dựng lông lên và bỏ chạy. Một ít lâu sau đó, nó dừng lại, tru dưới những vì sao đang nhấp nháy và chiếu sáng trên bầu trời giá lạnh. Sau đó, nó quay người và chạy trên lòng suối theo hướng có trại mà nó biết, nơi có những người cung cấp thức ăn và nhóm lửa.
Trần Ngọc Hồ Trường dịch
Dịch từ 50 Great American Short Stories, Bantam Books, 1972
(TCSH409/03-2023)