Truyện dịch
Phép lạ của Purun Bhagat
14:31 | 13/06/2025

Nhà văn Anh, Rudyard Kipling sinh năm 1865 tại Bombay, Ấn Độ (lúc bấy giờ là thuộc địa của Anh). Cha ông là chuyên gia về lịch sử nghệ thuật Ấn Độ. Rudyard Kipling mất năm 1936 tại Anh; mộ ông hiện nằm tại tu viện Westminster. Thời trai trẻ, ông sống ở Ấn Độ và hàng năm, có đi đến Himalaya. Rudyard Kipling được trao giải Nobel văn học năm 1907 cùng nhiều giải thưởng và bằng cấp danh dự của các đại học tiếng tăm ở Anh, Pháp, Canada và hoàng gia Anh.
            Trần Ngọc Hồ Trường giới thiệu và dịch

Phép lạ của Purun Bhagat
Nhà văn Rudyard Kipling - Ảnh: wikipedia

RUDYARD KIPLING


Phép lạ của Purun Bhagat


Hồi đó, có một người đàn ông ở Ấn Độ, là thủ tướng một bang bán thuộc địa ở tây bắc đất nước. Ông thuộc đẳng cấp Bàlamôn, là đẳng cấp cao đến mức nó không còn có ý nghĩa gì đối với ông. Cha ông là quan chức quan trọng ở một tòa án dành cho tiện dân Hindu. Nhưng khi trưởng thành, Purun Dass thấy là các trật tự đã thay đổi. Nếu ai đó muốn vươn lên trong đời, họ phải có quan hệ tốt với người Anh và bắt chước tất cả những gì người Anh cho là tốt đẹp. Cùng lúc đó, các viên chức bản địa phải phục tùng ông chủ. Đó là một trò chơi khó nhưng chàng trai Bàlamôn lặng lẽ, ít nói năng, sau khi tốt nghiệp Đại học Bombay, với cách thức giáo dục kiểu Anh, đã âm thầm vươn lên, trở thành thủ tướng của vương quốc. Ông có quyền lực cao hơn trong thực tế, so với nhà vua của vương quốc ông. Nhà vua luôn ngờ vực về người Anh, đường sắt và điện tín. Khi ông qua đời vì tuổi tác, Purun Dass có quan hệ tốt với người kế vị trẻ trung. Ông này được học với một gia sư người Anh. Ông tranh thủ sự ủng hộ của vị vua kế vị. Họ lập các trường dành cho nữ sinh, làm đường sá, mở các trạm xá, các cuộc trưng bày nông cụ, xuất bản các báo cáo về sự phát triển tinh thần và vật chất của vương quốc. Chính phủ Ấn Độ và bộ ngoại giao rất hài lòng về những điều đó. Rất ít các bang tham dự vào các chương trình phát triển của người Anh. Họ không tin, nhưng Purun Dass tin, là những gì tốt đẹp với người Anh thì cũng tốt đẹp gấp đôi cho người châu Á. Vị thủ tướng trở thành bạn đáng kính của các phó vương, các tổng đốc, phó tổng đốc, các nhà tuyên giáo chuyên về y tế, các nhà truyền giáo thuần túy, các sĩ quan Anh là những người cưỡi ngựa đến các khu bảo tồn của bang để săn bắn, cũng như là bạn của tất cả khách du lịch tới lui Ấn Độ vào mùa lạnh, để xem mọi việc được quản lý ra sao. Ông tài trợ cho các nghiên cứu y khoa và các ngành sản xuất, là các lĩnh vực được giảng dạy nghiêm túc bằng tiếng Anh. Khi rảnh rỗi ông viết thư cho tờ Pioneer là tờ nhật báo lớn nhất Ấn Độ, giải thích các mục tiêu của nhà vua. Cuối cùng, ông sang thăm Anh. Khi về, ông tốn một khoản tiền lớn cho các thầy tế, vì dù thuộc đẳng cấp Bàlamôn như ông vẫn có thể bị mất đẳng cấp nếu đã vượt biển. Ở Luân Đôn, ông gặp và trò chuyện với tất cả những người nổi tiếng. Tên tuổi ông vang khắp thế giới và ông tận mắt chứng kiến được nhiều điều trước đây ông chỉ nghe kể. Ông được các đại học danh tiếng trao cho các bằng cấp danh dự. Ông diễn thuyết về những thay đổi xã hội của người Hindu trước phụ nữ Anh trong các buổi dạ hội, cho đến khi cả Luân Đôn hô vang: “Đây là người đàn ông thú vị nhất mà chúng ta được biết kể từ ngày quần áo được phát minh”. Khi ông trở về Ấn Độ, có một làn sóng hân hoan. Phó vương đích thân tới vương quốc để trao tận tay nhà vua huân chương làm bằng kim cương cùng các dải ruy băng và ngọc. Cũng trong buổi lễ đó, trong tiếng đại bác, Purun Dass được phong hiệp sĩ. Tối đó, tại buổi ăn tối trong trại của phó vương, ông đeo huy hiệu và quàng vòng cổ hiệp sĩ trước ngực, đứng dậy chúc nhà vua sức khỏe, phát biểu bằng tiếng Anh giờ đã tốt hơn.

Vào tháng sau, khi thành phố đã im ắng, ông thực hiện một điều không người Anh nào muốn. Đó là ông chết khi việc đời còn đang tiếp diễn. Danh hiệu hiệp sĩ được trao lại cho chính phủ Ấn Độ và một thủ tướng mới được chọn từ những người ở cấp dưới để quản lý công việc. Các thầy tế biết chuyện gì đã xảy ra và dân chúng ước đoán. Nhưng ở nước Ấn Độ, người ta làm những gì họ thích và không có ai hỏi tại sao. Sự thật là Purun Dass - Hiệp sĩ đã từ chức, bỏ lâu đài và quyền lực, tay cầm bát đi ăn mày và mặc áo màu hoàng thổ. Đây là điều không có gì đặc biệt. Như lời xưa nói, ông có 20 năm tuổi trẻ, 20 năm là chiến binh và 20 năm dành cho gia đình. Ông đã dành sự giàu có và quyền lực cho những gì ông thấy là xứng đáng. Ông đã tận dụng danh dự khi nó đến. Ông đã thấy con người và các thành đô xa gần đứng dậy và tung hô ông. Bây giờ, ông từ bỏ mọi thứ, như người ta vứt bỏ chiếc áo khoác họ không cần nữa. Ông bước qua cổng thành phố, vai khoác áo da sơn dương, chống cây nạng đầu bịt đồng, tay cầm bát xin ăn, chân trần, lẻ loi, mắt nhìn xuống đất. Sau lưng ông, từ các pháo đài, người ta bắn súng để chào đón người kế nhiệm ông.

Purun Dass gật đầu. Quãng đời vừa qua đã kết thúc. Ông chẳng buồn, chẳng vui khi từ bỏ nó, như một người không màng tới giấc mơ vô vị đêm qua. Ông giờ sống như kẻ không nhà, lang thang khất thực, dựa vào lòng hảo tâm để kiếm bánh mì hàng ngày. Miễn là được chia sẻ một mẩu bánh thì không thầy tế hoặc kẻ ăn mày nào bị chết đói. Trong đời mình, ông chưa bao giờ ăn thịt và rất ít khi ăn cá. Ông chỉ dùng 5 pound để chi tiêu hàng ngày trong những năm qua, dù ông có hàng triệu pound. Ngay cả khi được tung hô ở Luân Đôn, ông vẫn giữ trong lòng mình giấc mơ về một cuộc đời an lạc. Ông mơ đến con đường dài, màu trắng, đầy bụi, in những dấu chân trần, ít người qua lại, có mùi hăng hắc bốc lên từ các cây vả lớn trong hoàng hôn, là nơi khách lữ hành ngồi và ăn bữa tối. Khi đã đến lúc thực thi giấc mơ đó, vị thủ tướng bước chân đi. Trong ba ngày, bạn sẽ dễ nhìn thấy bọt sóng biển Đại Tây Dương hơn là nhìn thấy được Purun Dass trong biển người tới và đi ở Ấn Độ. Đêm đến, ông trải áo khoác da sơn dương xuống để nằm, khi thì ở một tu viện bên cạnh đường, khi thì cạnh một đền thờ nơi những kẻ Jogis bí ẩn sẽ đón tiếp ông như đón tiếp những ai biết được giá trị của đẳng cấp. Có lúc ông ngủ ở ven rìa một ngôi làng, nơi bọn trẻ ngồi ăn thức ăn mà chúng lấy trộm của ba mẹ chúng, có lúc ông nằm ở cạnh một con mương trên đồng cỏ trống trơ, nơi lửa ngún làm cho mấy con lạc đà ngái ngủ tỉnh giấc. Đó là những gì đã đến với Purun Dass hoặc Purun Bhagat, là cái tên ông gọi ông bây giờ. Đất, con người và thức ăn ông có được là như thế. Ông vô tình đi sang hướng bắc rồi hướng đông, từ hướng nam tới Rohtak, từ Rohtak tới Kurnool, từ Kurnool tới thành phố đổ nát Samanah rồi đi dọc theo con sông cạn Gugger, chỉ có nước vào mùa mưa, cho tới một ngày kia, ông nhìn thấy dãy Himalaya xa mờ. Sau đó, Purun Bhagat mỉm cười vì ông nhớ là mẹ ông là người Bàlamôn, sinh ở Kuluway, vùng Rajput, luôn nhớ tuyết quê nhà. Dòng máu của bà đã thúc giục ông đi ngược về gốc gác của ông. “Bên kia”, Purun Bhagat nói và tiến tới những ngọn đồi thấp của dãy Sewalibs, nơi có những cây xương rồng chĩa ra như chùm nến bảy cây. “Bên kia! Tôi sẽ ngồi ở đó và giác ngộ!”. Gió Himalaya thì thào bên tai ông khi ông bước đến Simla. Lần cuối cùng ông đến đó là khi có một dịp lễ lạt. Ông đi với đoàn kỵ binh leng keng hộ tống, để viếng thăm phó vương tử tế và ân cần. Cả hai nói cả giờ về những người bạn chung ở Luân Đôn và việc người bình dân Ấn Độ nghĩ gì về cuộc sống.

Lần này, Purun Bhagat không nói năng gì, tựa người vào hàng rào của khu phố cấm xe qua lại, nhìn cảnh tượng huy hoàng của bình nguyên trải dài 40 dặm phía dưới, cho đến khi có một cảnh sát bản địa đến nói với ông là ông không được phép đi vào và Purun Bhagat chào đáp lễ vì ông hiểu pháp luật, đang tìm kiếm những quy tắc cho chính mình. Sau đó, ông đi tiếp, ngủ đêm ở một túp lều hoang ở Chota Simla - một địa điểm như ở tận cùng thế giới nhưng chỉ là nơi bắt đầu hành trình của ông.

Ông đi theo con đường Himalaya - Tibet, con đường mòn này đi xuyên qua vùng đá cứng, xuyên qua rừng cây nghiêng mình xuống vịnh sâu ngàn feet, len lỏi qua các thung lũng trống rỗng, phủ cỏ, nơi ánh nắng mặt trời chiếu xuống những tia nóng bức, chạy qua các cánh rừng tối om, có gà lôi gọi bạn, nơi cây dương xỉ làm cho thân cây rừng bóng loáng từ đầu tới chân. Ông gặp những người chăn gia súc Tây Tạng với chó và đàn cừu của họ. Mỗi con cừu đều mang lục lạc. Ông gặp các nhà sư Tây Tạng mặc áo choàng đi trong rừng, hướng đến Ấn Độ để hành hương. Ông cũng thấy các phái viên của các nhà nước nhỏ vùng núi cưỡi ngựa ô có đeo lục lạc hoặc các đoàn ngựa của một quý tộc đang đi thăm viếng. Trong những ngày dài sáng sủa, ông chẳng thấy gì ngoài một con gấu đen đang gầm gừ, sục sạo dưới thung lũng.

Minh họa: Nguyễn Thiện Đức


Khi ông mới ra đi, tiếng ồn ào của cuộc đời hãy còn vang bên tai, như tiếng xe lửa đi qua đường hầm. Nhưng khi ông đã vượt qua đèo Mutteeance, mọi âm thanh đã im bặt. Purun Bhagat chỉ còn một mình, lặng lẽ bước đi và suy tư, mắt nhìn xuống đất, ý nghĩ bay cùng mây trời. Một buổi tối nọ, ông đã vượt lên được đỉnh con đèo cao nhất cho tới lúc đó, một con đèo cần bước đi hai ngày mới qua. Những đỉnh núi phủ tuyết chắn ngang đường chân trời. Các đỉnh núi mây cao tới 15 - 20 ngàn feet, tưởng như có thể quẳng một viên đá là tới nhưng kỳ thực, chúng nằm cách xa ông tới 15 - 16 dặm. Rừng phủ vây con đèo. Có cây thông tuyết, cây dẻ, cây đào dại, cây ôliu dại, cây lê dại nhưng nhiều nhất là cây thông tuyết - một loài cây mọc nhiều ở dãy Himalaya. Dưới bóng các cây thông tuyết, có một ngôi đền thờ nữ thần Kali, vị thần còn có tên là Durga, Sitala. Khi bị bệnh đậu mùa, người ta thi thoảng cầu khẩn bà. Purun Dass quét sạch nền đá, nhìn bức tượng đang cười, làm một cái lò đất phía sau đền, trải áo choàng bằng da sơn dương lên lá thông tươi, bỏ chiếc nạng ra và ngồi xuống nghỉ ngơi. Bỗng phía dưới ông, một sườn đồi hiện ra rõ, cách ông chừng 1500 feet, nơi có một ngôi làng nhỏ, với nhà vách đá, mái đắp đất, bám nghiêng trên sườn đồi. Xung quanh làng, các mảnh đất trống nằm như các tấm tạp dề chắp vá trên đầu gối của núi và những con bò không lớn hơn các con bọ cánh cứng đang gặm cỏ nằm ở kẽ các tảng đá nằm quanh các thùng đập lúa. Nhìn qua thung lũng, mắt người bị kích thước của các vật làm cho nhầm lẫn. Nhìn lần đầu, chúng tưởng như là các bụi cây thấp trên sườn núi đối diện, kỳ thực, chúng là cánh rừng với thân cây cao trăm feet. Purun Bhagat thấy một con đại bàng bay trong bao la nhưng con chim lớn này chỉ còn là một cái chấm khi nó bay đi mất. Một vài đám mây nằm rải rác trên thung lũng, bay qua các ngọn đồi, lên xuống rồi biến mất khi đến được đỉnh đèo. “Ta tìm được bình an ở nơi đây”, Purun Bhagat nói.

Bây giờ, người miền cao ở phía dưới một vài trăm feet đang vào kỳ thư thả. Ngay khi dân làng thấy có khói bốc lên ở ngôi đền vắng, thầy tế của làng đi lên để chào người lạ. Khi nhìn vào đôi mắt của Purun Bhagat - đôi mắt của kẻ từng cai trị hàng ngàn người, ông cúi xuống cầm bát khất thực mà không nói gì rồi trở về làng, nói là “Chúng ta đã có một vị thánh. Tôi chưa nhìn thấy ai như ông ấy. Ông ấy là người đồng bằng nhưng da dẻ khá xanh xao, là người Bàlamôn của người Bàlamôn”. Sau đó, các bà trong làng nói, “Sao anh không gọi ông ấy đến sống với chúng ta?”. Mỗi bà đều cố nấu món ngon nhất dành cho ông ấy. Thức ăn của người miền núi thật đơn giản. Nguyên liệu gồm kiều mạch, bắp, gạo, tiêu đỏ, cá nhỏ bắt dưới suối, mật của các tổ ong trên vách đá, quả mơ khô, gừng, nghệ dại và bột. Những người phụ nữ thành kính có thể nấu các món ăn ngon từ chúng. Họ bưng chén thức ăn đầy ra cho Purun Bhagat. “Ông ấy nói gì?”, thầy tế hỏi. “Ông ấy có cần một môn đệ để giúp đỡ không? Ông ấy có mền chống lại cái lạnh không? Thức ăn ngon không?”

Purun Bhagat ăn và cảm ơn người mang thức ăn đến. Ông muốn ở lại đó. “Vậy là được”, thầy tế nói. “Hãy để cái chén bên ngoài đền, giữa hai rễ cây. Hàng ngày ông ấy sẽ có thức ăn”. Dân làng tự hào vì có ông. Họ nhìn ông bẽn lẽn, vui vì ông còn lần lữa ở với họ.

Hôm đó là ngày cuối cùng trong hành trình của Purun Bhagat. Ông đã đến được nơi đã chọn, là một nơi yên tĩnh và thoáng đãng. Sau cùng, thời gian đã dừng lại. Ông ngồi ở cửa ngôi đền, không thể nói là mình còn sống hay đã chết. Người đàn ông từng có quyền hành, giờ đây là một phần của đồi núi, mây gió và mưa nắng. Ông lẩm nhẩm đọc thần chú hàng trăm lần và sau mỗi lượt đọc, ông như xuất hồn, bay đến cánh cửa của sự đại giác. Nhưng ngay khi cửa mở, thân thể ông lại kéo ông lại và ông đau đớn trở lại là Purun Bhagat bằng xương bằng thịt.

Mỗi buổi sáng, chiếc chén đặt ở giữa các rễ cây được lặng lẽ đổ đầy thức ăn. Thi thoảng, ông thầy tế đổ, thi thoảng là một nhà buôn Ladakhi đổ. Ông này ở trọ trong làng, đem thức ăn đi mà không kể công. Nhưng thường xuyên hơn là một phụ nữ hay nấu cơm đêm trước cho ông. Chị lẩm bẩm nói, “Ông Bhagat, nhớ cầu cho tôi là người bị ghét bỏ”. Thảng hoặc, một chú bé táo bạo sẽ nhận trọng trách mang cơm. Purun Bhagat nghe cậu ta đặt cái chén xuống và bỏ chạy thục mạng. Bhagat không bao giờ xuống làng. Phía dưới như một tấm bản đồ trải rộng, ông có thể thấy những buổi tụ tập ban chiều, chờ đến lượt đập lúa. Ông thấy được vì các hoạt động này diễn ra ở nơi bằng phẳng. Ông còn có thể thấy màu xanh ngun ngút của lúa non, màu xanh như màu cây sậy của bắp, các đám kiều mạch và màu hoa đỏ của cây amaranth là loài cây có hạt nhỏ, nhỏ hơn hạt đậu, được dùng làm thức ăn đúng luật trong mùa chay của người Hindu. Khi bước sang năm mới, những mái nhà trong làng là những ô vuông nhỏ vàng rực, vì dân làng phơi trái ngô trên đó. Họ nuôi ong và lấy mật, gieo trồng và gặt hái. Tất cả diễn ra trước mắt ông, trên các mảnh đất nhiều cạnh bên dưới. Ông nghĩ đến tất cả họ và tự hỏi họ thu được gì nhiều sau những khó nhọc.

Ở Ấn Độ đông đúc, người ta không ngồi yên để nhìn thú hoang đi qua trước mặt họ, cho dù họ có là đá. Ở vùng đèo hoang vu này, thú hoang biết rõ người mới đến ngôi đền thờ nữ thần Kali nên chúng muốn đến nhìn xem. Khỉ langur ở Himalaya to lớn, có ria xám, bản tính tò mò. Chúng là loài đầu tiên đến lật chén, lăn chén trên nền đất, cố cắn chiếc nạng đầu bịt đồng, nhìn ngó chiếc áo khoác da sơn dương rồi kết luận rằng, người đàn ông hay ngồi bất động trong đền là vô hại. Vào buổi chiều, chúng từ các cây thông nhảy xuống, chìa tay xin thức ăn rồi lại uốn lượn nhảy đi. Chúng thích cái ấm áp của bếp lửa, đến nằm co ro bên bếp. Purun Bhagat phải đẩy chúng đi để thêm củi vào. Vào buổi sáng, thi thoảng ông thấy có một con khỉ đang đắp chung mền với ông. Suốt ngày dài, một vài con khỉ ngồi bên cạnh ông, nhìn tuyết rơi, ngẫm ngợi, vô ngôn.

Sau những con khỉ là một con nai. Nó to như nai đỏ của chúng ta nhưng mạnh hơn. Chú ta cạ sừng có nhung vào các viên đá lạnh của bức tượng nữ thần Kali, giậm chân khi thấy người đàn ông trong đền. Nhưng Purun Bhagat không cử động và thế là, dần dần, con nai nhích tới, sục mũi vào vai ông. Purun Bhagat lấy bàn tay lạnh cóng của mình vuốt ve những chiếc sừng mỏng và điều này làm con nai rung động, cúi đầu xuống. Purun Bhagat lại nhẹ nhàng vuốt ve sừng của nó. Sau đó, con nai đực dẫn con nai cái tới. Nó rất dễ mến, hay thì thào với thánh nhân. Có đêm, con nai đến một mình, mắt nhìn vào chiếc bếp đang bập bùng và ăn quả óc chó cùng người đàn ông. Cuối cùng con hươu xạ bẽn lẽn và nhỏ bé nhất trong loài hươu cũng đến, đôi tai như tai thỏ của nó vểnh lên. Con hươu nâu vằn lặng lẽ này cũng muốn biết lửa trong đền có ý nghĩa gì và đưa chiếc mũi sục vào lòng Purun Bhagat và đi lại quanh bếp lửa. Purun Bhagat gọi chúng là những người anh em và kêu “Bhai! Bhai!” vào buổi trưa để gọi chúng từ rừng về, nếu chúng nghe được. Con gấu Himalaya đen, mướt mát và hay nghi ngờ tên là Sona có chòm lông hình chữ V ở dưới cằm cũng lui tới vài lần. Khi thấy Bhagat không sợ, nó cũng không tỏ ra hung dữ, nhìn ông và đi vào, xin được vuốt ve và được ăn bánh mì hoặc quả mọng dại.

Thường thì vào những bình minh, Bhagat sẽ trèo lên đỉnh đèo để xem ngày mới rực lên dọc theo các đỉnh núi tuyết phủ. Ông sẽ thấy Sona hục hịt ở chân ông, lấy chân trước đẩy những thân cây ngã và mất kiên nhẫn mang chúng đi tới. Có khi bước chân trong sớm mai của ông sẽ làm cho Sona tỉnh giấc khi nó đang cong mình nằm ngủ. Con thú to lớn đứng thẳng dậy, muốn tấn công ông nhưng khi nghe được giọng nói của Bhagat thì nó biết đó là giọng của bạn thân.

Hầu như mọi ẩn sĩ và thánh nhân là những người sống xa các thành thị, được biết là có phép lạ với các loài thú hoang nhưng các phép lạ này rất bí ẩn, không được thực thi một cách vội vàng và trong một thời gian dài, ít ai được chứng kiến. Dân làng thấy con nai nhảy múa trong bóng tối phía sau ngôi đền, gà lôi Himalaya khoe bộ lông rực rỡ của nó trước ngôi đền và chú khỉ dùng chân chơi đùa với vỏ quả óc chó trong đền. Một vài đứa bé còn nghe được Sona hát và múa máy phía sau các tảng đá. Người ta tin chắc là Bhagat có phép lạ. Ông không nghĩ gì về phép lạ. Ông tin là thế giới gồm các phép lạ và khi ai biết thế, họ sẽ biết cách tiếp tục sự sống. Ông biết chắc là không có gì là lớn và không có gì là nhỏ trên đời này. Ông ngày đêm suy tư về bản chất của vạn hữu, nghĩ về nơi xuất phát của tâm linh. Mái tóc không được cắt của ông dài xuống hai vai. Nơi có mảnh đá gắn vào vai chiếc áo khoác da sơn dương đã bị lõm vào. Ở giữa các rễ cây, nơi hàng ngày ông đặt chiếc bát xin cơm, cũng bị lõm xuống, mòn vẹt, bóng loáng như một quả đạn. Các loài thú đều biết rõ vị trí của chúng quanh bếp. Các cánh đồng thay đổi màu tùy theo mùa, các thùng đập lúa đầy rồi vơi. Khi mùa đông đến, các chú khỉ chuyền vui trên các nhánh cây nhẹ phủ tuyết và vào mùa xuân, các con khỉ mẹ đưa các chú khỉ con có các đôi mắt nhỏ u buồn đến các thung lũng ấm áp. Trong làng cũng có nhiều thay đổi. Ông thầy tế đã già đi, lũ trẻ đem cơm giờ đã từ biệt tuổi thơ. Khi bạn hỏi dân làng là người đàn ông thánh nhân đã sống bao lâu rồi ở ngôi đền trên đỉnh đèo, họ sẽ nói, “Đã lâu lắm!”.

Sau đó, mưa mùa hè đến. Mưa như chưa bao giờ có mưa ở vùng núi này. Trong ba tháng ròng, thung lũng phủ đầy mây và sương mù. Mưa dữ dội không ngớt, sấm chớp nối tiếp sấm chớp.

Đền thờ nữ thần Kali như đứng trên mây. Trong cả tháng ròng, Bhagat không thấy một bóng người. Ngôi đền như bị mây đóng gói. Mây cuồn cuộn, vần vũ nhưng không bao giờ rời bến của nó là các sườn đồi ào ạt nước. Ông chẳng nghe được gì, ngoài âm thanh của hàng triệu giọt mưa. Mưa rơi trên lá, trên mặt đất, mưa thấm ướt những lá thông, nhỏ giọt trên những lá cây dương xỉ, phun trên những cái rãnh nước xuất hiện trên các con dốc. Sau đó, mặt trời xuất hiện. Cây thông tuyết và cây đỗ quyên tỏa ra một thứ mùi mà người vùng núi gọi là “mùi của tuyết”. Mặt trời ấm áp chỉ hiện diện một tuần, sau đó, mưa lại trút xuống, lột da mặt đất, cuốn bùn đi. Purun Bhagat đốt lửa to ban đêm vì ông chắc là những người bạn của ông cần hơi ấm. Nhưng không có một con thú nào đến, dù ông hô to cho đến khi ngủ gục, tự hỏi chuyện gì đã xảy ra trong rừng.

Vào nửa đêm hôm đó, mưa kêu lầm rầm như hàng ngàn cái trống. Ông giật mình vì có ai đó kéo mền. Ông vùng dậy và thấy có một bàn tay nhỏ của một chú khỉ. “Ở đây ấm hơn ở trên cây!”, ông ngái ngủ nói và bung mền ra. “Đắp cho ấm đi!”. Con khỉ nắm lấy tay ông và kéo mạnh. “Đòi ăn sao?”, Purun Bhagat hỏi vì thấy ánh mắt nó thật khó hiểu. “Hay là có con khỉ nào đã bị bẫy? Mà có ai bẫy thú ở đây đâu! Trời này tôi ra ngoài không được. Nhìn kìa người anh em, con nai đã vào đền để trú mưa kìa!”. Con nai bước vào và liên tiếp va sừng vào bức tượng nữ thần đang mỉm cười. Nó cúi đầu xuống và đi về phía Purun Bhagat, bồn chồn dậm chân và khịt khịt mũi.

“Ha, ha, ha!”, Bhagat cười và bẻ ngón tay. “Làm thế để cảm ơn vì được ngủ đêm ở đây phải không?”. Nhưng con nai đẩy ông ra phía cửa và cùng lúc đó, Bhagat nghe có âm thanh gì đó như tiếng thở dài, hai viên đá của nền ngôi đền nứt ra, đất rung chuyển. “Giờ thì tôi đã hiểu”, Purun Bhagat nói. “Đừng trách vì sao các bạn tôi không chịu ngồi bên lửa ấm. Núi đang lở. Tại sao tôi phải đi?” Mắt ông nhìn cái bát xin ăn và mặt biến sắc. “Dân làng đã cho tôi ăn kể từ khi tôi đến đây, nếu tôi không nhanh chân, ngày mai sẽ không còn ai trong làng sống sót. Tôi phải đi để cảnh báo dân làng phía dưới. Lại đây, bạn ạ! Hãy để tôi đốt đuốc lên”. Con nai miễn cưỡng tiến lại khi Bhagat đốt một cây đuốc gỗ thông cho đến khi nó cháy rực. “À, vâng. Các bạn đã đến để thông báo”, ông nói và đứng dậy. “Chúng ta phải đi, phải đi ngay. Nào, cho tôi mượn cái cổ anh, anh bạn, vì tôi chỉ có hai chân”. Ông lấy tay phải bám vào u vai đầy lông của con nai, tay trái cầm đuốc và cả hai ra khỏi đền trong đêm nguy nan. Trời không có gió nhưng mưa to muốn làm tắt ngọn đuốc khi con nai lớn chạy xuống dốc, có lúc bị trượt chân. Có nhiều người anh em khác gia nhập vào khi họ đi trong rừng. Ông nghe nhưng không thấy là con khỉ đi sát ông và phía sau có tiếng u u của con gấu Sona. Mưa làm cho những sợi tóc dài, màu trắng của ông se lại như dây thừng. Nước mưa bắn tung tóe dưới chân ông, chiếc áo khoác dài hít sát vào thân thể mảnh dẻ của ông nhưng ông bám vào con nai, bước đi vững chãi. Ông không còn là thánh nhân, hiệp sĩ, thủ tướng quen ra lệnh mà giờ là kẻ đi cứu người. Họ cùng nhau đi xuống những lối mòn trơn trợt và cao, cho đến khi con nai trượt chân vào một cái thùng đập lúa. Nó khụt khịt mũi vì nó biết là đã có người. Giờ họ đã tới được đầu con đường làng cong cong và Bhagat lấy nạng đập vào cửa sổ nhà của ông thợ rèn. Ngọn đuốc ông rực sáng ở hiên. “Thức dậy và đi mau!”, Purun Bhagat thét lên. Ông không biết là ông đang nói vì đã lâu ông không nói với bất kỳ ai. “Ngọn đồi sắp sụp! Ngọn đồi sắp sụp! Đi nhanh, đi nhanh!” “Ông Bhagat của chúng ta!”, vợ người thợ rèn nói. “Ổng đang đứng với các con thú. Lấy đồ đạc cần và báo động nhanh lên”. Tin tức từ nhà này chuyền sang nhà khác trong khi các con thú đứng sát lại với nhau trên lối đi hẹp, quấn quýt quanh Bhagat. Con gấu Sona mất kiên nhẫn khụt khịt mũi.

Mọi người đổ xô ra đường. Có tất cả hơn 70 người. Trong ánh đuốc, họ thấy Bhagat của họ giữ con nai lại, trong khi con khỉ bám vào áo ông còn con gấu Sona thì ngồi trên hai chân sau và rống. “Băng qua thung lũng và leo lên ngọn đồi kế tiếp”, Purun Bhagat thét. “Đừng để ai ở lại. Chúng tôi sẽ theo sau!”. Sau đó, mọi người chạy nhanh như những người vùng núi. Họ biết là nếu có lở đất, bạn phải trèo lên khu đất cao nhất bên kia thung lũng. Họ hì hục lội qua con suối nhỏ ở dưới đồi và đi về phía khu đất trồng trọt ở đồi bên kia. Bhagat và những người bạn của ông theo sau. Họ lên ngọn đồi đó, gọi tên nhau bằng tên cúng cơm. Sau gót họ là con nai, được Bhagat đẩy đi một cách yếu ớt. Cuối cùng, con nai dừng lại dưới bóng một cánh rừng thông dày, ở độ cao 500 feet. Bản năng biết đất lở nói với nó là mọi người đã đến được nơi an toàn.

Purun Bhagat ngồi phịch xuống bên cạnh con nai, vì cái lạnh và việc leo trèo đã làm cho ông quá mệt mỏi. Nhưng ông vẫn tập trung mọi người lại. “Hãy đếm thử có còn thiếu ai không!” Sau đó, ông thì thào với con nai khi những người cầm đuốc đã tập trung lại. “Ở lại với tôi, những người anh em. Ở lại cho đến khi tôi chết!”. Có tiếng lầm rầm càng lúc càng lớn, cho đến khi mọi người nghe đùng đùng. Ngọn đồi nơi dân làng sống chìm trong bóng tối và đổ sụp. Một âm thanh nghe sắc, sâu, đanh như nốt đô vang lên trong khoảng 5 phút. Các bộ rễ thông bị bật lên. Sau đó, âm thanh đó tắt hẳn. Tiếng mưa rơi trên nền đất cứng nghe như tiếng trống đang lịm dần. Không ai, kể cả ông thầy tế nói được điều gì với Bhagat là người đã cứu họ. Họ tụ tập dưới các gốc thông và chờ trời sáng. Khi trời sáng, họ nhìn qua thung lũng. Những gì trước đây là rừng, đất canh tác, bãi cỏ chỉ còn là một đống màu đỏ, lầy bầy, lục cục, có các gốc cây nằm chỏng chơ. Màu đỏ gạch chạy lên ngọn đồi nơi họ lánh nạn rồi chảy ngược xuống suối và lan ra như một cái hồ. Cả ngôi làng, con đường vào ngôi đền, ngôi đền, cánh rừng biến mất, không còn dấu vết. Ngọn núi cao 2000 feet, rộng một dặm cũng mất tích từ đầu cho tới chân.

Tất cả dân làng lần lượt đến phủ phục trước Bhagat. Họ thấy con nai đứng bên cạnh ông nhưng bỏ chạy khi họ tới gần. Họ nghe tiếng con khỉ than khóc trên cành và con gấu Sona đến rống trên đồi. Bhagat đã chết, trong tư thế ngồi xếp bằng, lưng tựa vào một gốc cây, chiếc nạng trong nách và mặt quay về hướng đông bắc. Thầy tế nói: Ông ấy nhìn thấy phép lạ này đến phép lạ khác. Bởi vậy, ông ấy phải được chôn cất chu đáo. Tại nơi ông ấy chết, chúng ta sẽ xây một ngôi đền để tưởng niệm, thờ cúng. Họ xây một ngôi đền trong thời gian gần một năm. Đó là ngôi đền nhỏ bằng đất và đá. Họ gọi ngọn đồi nơi ông nằm là Đồi Bhagat. Họ dâng hoa, thắp đèn và cúng ông vào ngày ông chết. Nhưng họ không biết người họ thờ cũng là ngài Purun Dass, tiến sĩ, hiệp sĩ, từng là thủ tướng của nhà nước Mohiniwala văn minh và thịnh vượng, thành viên danh dự hoặc thành viên thông tấn của các tổ chức giáo dục và khoa học. Họ chỉ biết ông đã làm điều thiện lành ở kiếp này và kiếp sau.

R.K
(TCSH435/05-2025)

___________________

Dịch từ bản tiếng Anh, có tham khảo bản tiếng Pháp trong Nouvelles Anglaises Classiques/ Classis British Short Stories, Pocket, 2010.

 

 

Các bài đã đăng
Nàng Osan (17/02/2025)
Máy lạnh (02/12/2024)
Những bàn tay (01/11/2024)
Bữa trưa (18/10/2024)
Sushi(1) (18/09/2024)
Con diệc trắng (22/08/2024)