Truyện ngắn
Người đọc Borges
14:49 | 03/10/2025

NGUYỄN VĨNH NGUYÊN

Dịch giả của cuốn sách, theo những gì tôi dò tìm được, ông đã chết khi chưa kịp nhìn thấy dịch phẩm được in ra trong hình dạng một cuốn sách. Tuyển tập những bài thơ, tiểu luận, truyện ngắn của Borges, chúng nhanh chóng chìm vào khoảng mù tăm của thời kỳ ảm đạm đó.

Người đọc Borges
Minh họa: Đặng Mậu Tựu

Nói rõ hơn, chúng xa lạ trong khung cảnh văn chương tả thực tầm thường được tạo ra bởi những kẻ giành quyền định nghĩa lịch sử và không quên chiếm cho được một chỗ ngồi nơi băng ghế văn học sử. Một thứ văn chương được viết ra từ nhãn quan đui mù, siêu thực và đánh đố, liệu có ích gì?, một nhà phê bình uy quyền đã nói hùng hồn trong một cuộc bút chiến tan tác khói lửa, trong đó, đối tượng hứng chịu những đợt tổng công kích không phải là Borges, mà là một thứ tập hợp văn chương siêu thực - phi lý có màu sắc ngoại lai, trong đó, có tác phẩm của Borges.

Đó cũng chẳng phải là lý do tôi đọc lại Borges qua bản dịch dăm ba lần sa vào sự rối rắm như tổ mối mãi về sau này.

Câu chuyện mà tôi sắp kể ra đây chỉ đơn giản, trong thứ ánh sáng rạng rỡ khác thường mà thủy tinh thể nhân tạo mới được lắp vào tròng mắt sau một ngày, khi thức dậy, tôi hân hoan thái quá trước khung cảnh trong suốt và mới mẻ chung quanh, tôi biết mình thoát khỏi nguy cơ mù lòa, như Borges. Tôi nghĩ ngay tới Borges, kẻ đi vào bóng tối như một nhà thần bí, một bậc thầy của ngôn ngữ thinh lặng xuyên thời gian, một vũ trụ mà ở đó mọi vật thể đều bị xóa mờ các đường viền, làn ranh và nhòa lẫn mọi hình thái.

Tôi đi lại trong căn phòng, quét ánh mắt chậm rãi lên các đồ vật và định hình lại từng tên sách, chúng mới mẻ từ các đường nét thiết kế, hình khối, màu sắc, thậm chí đến cả lớp bụi phủ mỏng trên các mảnh bìa nhàu nát và bị mối mọt gặm cũng khoác vào một hình sắc khác, lung linh. Triết học, văn học, sử học, địa lý, tâm lý, thần học, thi ca. Tất cả. Hàng trăm cái tên hiện ra sáng sủa và mạch lạc trong một trật tự mới và, cả sự ồn ào mới. Tôi mở cửa, nhìn những tán lá cây bàng trở đỏ trên cái ban công hẹp, một quang cảnh khác bừng lên sau những năm tháng não bộ tôi cứ lầm tưởng rằng ánh sáng xám lạnh mới là tone màu chủ đạo. Tôi ngước mắt nhìn đám mây trắng lê mình qua các nóc nhà chen chúc. Tôi kiễng chân sau chậu cây nguyệt quế trổ bông trắng để ngó lại con hẻm yên tĩnh, một chú mèo hoang ốm đói đang đi qua đi lại, cạ mình vào chân tường bụi bặm. Ngay cả cái hình ảnh tiều tụy ấy lại rạng lên đường nét của sự tinh khôi.

Tôi trở lại giá sách và, lúc này, Borges đã ngồi ở đó như tượng. Nơi chiếc ghế ở góc tường, ông, trong bộ vest tối màu, tay chống gậy, khuôn mặt chảy dài, những đường nét ẩn hiện bóng âm như mới được vớt lên từ lớp thuốc hiện hình trong buồng tối. Con mắt bên phải sụp xuống, trong khi con mắt bên trái lại nhướng trố lên nhìn vào khoảng trống giao thoa giữa hai vệt nắng hắt qua cửa sổ. Hình ảnh quen thuộc đó luôn cho tôi ý nghĩ rằng, chính con mắt sụp xuống kia mới là con mắt nhìn thấy cái toàn thể thâm viễn, còn con mắt nhướng lên lại đang bị treo vào cuộc đời trong nỗi kinh ngạc không cùng. Ông đã ngồi ở đó nhiều mùa mưa rồi, chú tâm dõi theo bầy mối chuyển động trong các nếp gỗ. Borges có thể vẽ ra các con đường hầm ngoằn ngoèo của chúng chui rúc qua các bờ tường và xuyên xuống lòng đất như cách ông đã tìm logic cho những truyện ngắn đang bị chính lũ mối gặm nhấm. Nhiều lần tha thẩn ở trong căn phòng và không thiết mở cửa bước ra ngoài, tới bóng tối lan dần trong thị giác, qua các lớp ý nghĩ chớp hiện, tôi không lý giải được vì sao mình lại thấy điều đó, sự hiện diện của ông là tự nhiên tới mức hiển nhiên. Càng khó lý giải tại sao mình cần đến một cuốn sách trí tuệ được viết ra bởi một người mù trong lúc này. Và tôi đành biện minh cho sự việc ấy bằng một lý lẽ hời hợt mà nói ra, hẳn bạn sẽ thất vọng vô cùng: Tôi cần đến Borges để thấy mình không mù lòa.

Vậy ra bạn sẽ nói tôi chỉ vì một căn bệnh về mắt mà tìm đến Borges cho ra vẻ nghiêm trọng, cái nghiêm trọng của kẻ chuyên hư cấu và vẽ chuyện. Bạn cũng có thể nghi vấn thêm, hay là sự tỏ vẻ nguy hiểm đó có nguyên nhân sâu xa là phóng đại cảm giác sợ hãi mù lòa hoặc cảm xúc hả hê của kẻ chiến thắng mù lòa? Thế thì bạn sắp chạm vào cái thế giới phức tạp trong tâm lý của tôi rồi. Tôi đã nghĩ tới chứng mù lòa từ lâu, mỗi khi tôi cầm lên tay bất kỳ cuốn sách nào. Tôi luôn nghĩ đến một ngày những thế giới được sắp xếp bên trong các trang giấy trôi ngang tôi không để lại một dấu vết gì. Những dòng chữ bị bôi xóa, hình hài cuốn sách nhạt nhòa và mất hút. Tôi chẳng thiết lập được một mối quan hệ nào với chúng và không gian quen thuộc mà chúng ngự trị. Chúng chẳng hề can dự gì đến cuộc đời và trải nghiệm tinh thần của tôi.

Chứng mù của đôi mắt sẽ lan sâu vào bên trong.

Một người đứng trước cửa mù lòa, tôi đã nghĩ, nó có phần giống bạn, kẻ mắc hội chứng quên ở giai đoạn chớm. Bạn luôn trong tình trạng lấp lửng với thế giới mà mình đang thu nhận. Bạn sẽ cố vớt vát từng vụn ký ức để nâng niu và biết chắc rằng chúng sẽ trôi tuột bên ngoài ý chí, nỗ lực lưu trữ. Mọi thứ sẽ đổ về một khoảng không vô hạn khi bệnh tình của bạn tiến triển ngày qua ngày. Bạn quên đồ vật, quên sự kiện, quên tên người thương yêu, quên những mối quan hệ thân sơ, quên thói quen sinh hoạt hằng ngày như giờ giấc tắm và nghỉ ngơi, quên đã hay chưa từng có những bữa ăn và lạc lối trên con đường đi vào phòng ngủ, nhà vệ sinh, quên tất thảy những cuốn sách trong thư viện viết về gì, quên những đĩa nhạc, những giai điệu và ca từ, quên các mùi hương và sự tiếp chạm mọi đồ vật. Chứng quên sẽ chiếm lĩnh hoàn toàn tâm trí lẫn cuộc sống khiến bạn như dạo bước vào một phiên bản đời sống khác của một kẻ xa lạ ẩn náu trong nội tại, một phiên bản tinh thần được tạo ra từ nhiều phiên bản bị cắt xén, vụn vỡ, hỗn độn, dập dềnh. Trong thế giới của bạn, mọi thứ chuyển dịch một cách chậm chạp, mọi hình ảnh bị lóa sáng hoặc mờ tối dần dần cho đến khi tắt ngúm, đen ngòm. Vô ảnh. Bóng tối như đám nham thạch đặc sệt loang qua con ngươi, xâm nhập vào bên trong và khiến bạn ngờ vực các cảm giác về mọi dạng thức ánh sáng, mọi khoảng cách, mọi phù ảnh, mọi hoạt động chung quanh. Tất thảy bị ném vào một cõi bất xác, mù mịt, dù bạn biết rằng, cuộc sống là sự đan xen của những cái nhìn khác nhau, làm gì có sự chân xác tất định (thầy giáo dạy triết của bạn đã nói như thế, khi bàn về một con mắt khác, trong những ngày ông dịch trang cuối một cuốn sách của Nietzsche).

Nhưng tôi đâu chỉ có đứng ngay ngưỡng cửa của sự mù lòa khi các dây thần kinh suy thoái đột ngột và đám mây đục mờ đang liếm qua vùng thủy tinh thể. Một cuộc đánh chặn, sau và trước, trong và ngoài, trên và dưới khiến tròng mắt của tôi gần như vô dụng. Bóng đen lan dần qua nhãn cầu như một đám mây giông cuộn đầy dọa nạt trong chiều mùa hạ. Đã vậy, tôi còn mắc chứng loạn. Chứng loạn với nhiều người, thật quá đơn giản. Nó có thể là sự khó chịu khi nhìn mọi vật nhòe đi, không rõ nét và đôi khi còn mang lại cái khoái cảm thị giác lạ lùng của một mặt trăng tự nhân thành hai, thậm chí ba hay bốn trên bầu trời đêm. Tôi lại khác, đôi mắt của tôi có thể tiếp nhận mặt trăng rõ nét đến từng nét lồi, lõm, lở loang trên bề mặt của nó, nhưng những con người chung quanh lại mờ nhòe, biến dạng và lắm lúc tự nhân ra quá nhiều phiên bản khác biệt. Nói vầy cho dễ hiểu, nếu một cô gái từ phía xa đi lại, thì ở khoảng mười đến bảy mét, cô ta nhân đôi, hai phiên bản khác nhau: một có sống mũi cao và miệng trái tim nhưng một lại có chiếc mũi sụp dị dạng và môi mỏng cong như mảnh vỡ của một miệng bình bằng sứ; từ sáu phẩy chín mét đến bốn phẩy ba mét, cô ta nhân ba: một đẹp, một xấu tệ và một còn nhận ra đấy là người; từ bốn phẩy hai đến hai phẩy một mét, cô ta trở về nhân đôi thành hai phiên bản giống hệt nhau; và, rồi sau đó thì cô ta hợp nhất, rõ ràng là một cô gái duy nhất mới mẻ hoàn toàn so với cô gái ở khoảng cách mười mét. Bác sĩ gọi chứng này bằng một từ khoa học nào đó mà tôi vì lùng bùng lỗ tai, đã không còn nhớ, và giải thích rằng nó là hệ quả của sự suy giảm thị lực kết hợp với ảo giác. Cô không quên hỏi tôi có cắn cỏ hay hít khói gì không. Tôi bảo không, tôi chỉ đọc sách và hít bụi trong căn phòng biệt lập của mình. Cô bảo, vậy là quá hiểu rồi. Và không giải thích gì thêm.

Vậy thì tôi đâu cần đến sự lặng thinh của ông. Bởi tôi có thể đặt tên cho nó: sự nhân lên và hợp nhất của hình ảnh do loạn thị cộng hưởng ảo giác.

Tôi đã trải qua thời kỳ sợ hãi ánh sáng. Ánh sáng luôn mở ra cho tôi thấy cuộc đời hỗn độn khó ngờ. Tôi luôn thấy xoay quanh mình những đám đông đồng dạng chuyển sang dị dạng và trở về đồng dạng, họ cùng cử động theo một động tác, nhòa chập vào nhau và lại tách rời, co giãn trong cái động lực xâm chiếm và chồng lấn, tương dung tự nhiên của mọi vật, mọi loài trong cái thế giới hỗn độn nối tiếp hỗn độn. Trong nỗi sợ đui mù, tôi nhắm mắt chìm vào khoảng tối, bên Borges - bây giờ là bức tượng phủ bụi. Tôi và bức tượng chỉ còn có thể cảm nhận được về một cuộc đối thoại xuyên qua lặng thinh. Khi các lớp hình ảnh chồng chéo lên nhau, nhào trộn vào nhau không thể phân định thực và ảo thì thường cái nghe tạo ra đường nét khiến thế giới được sắp xếp lại theo một trật tự khả dĩ. Tôi thấy sự sáng rõ và rạch ròi mà thứ thanh âm tĩnh tại tạo dựng. Tôi minh định chúng bằng cái nghe vượt ngoài tâm trí. Như vị thầy mù đã dạy Abel bắn súng trong truyện của Alessandro Baricco. Nghe, ban đầu, là nghe. Nghe, về sau, là thấu thị. Tôi quẳng các mắt kính thuốc vào thùng rác, tôi thấy quá phiền với chúng vì chúng chẳng mang lại gì ngoài việc khiến cho thần kinh tôi mỏi mệt hơn trong việc phân tích điểm nhìn. 

Những cơn đau trong nhãn cầu đã bắt đầu báo động về các chấn thương lan sâu đáy mắt. Bác sĩ, một phụ nữ trung niên có vóc người và cách phát âm giống Thang Duy trên màn ảnh, nói với tôi, sự tổn thương này chắc chắn đã xảy ra trong quá khứ. Cô dò hỏi tôi về việc có từng bị một tai nạn nào khiến đầu bị đập xuống đường hay va vào một bức tường? Tôi không sao nhớ được. Tôi cũng không thể chia sẻ với cô về việc mình đã có lúc tự đập đầu vào bức tường dưới chân cầu thang trong những năm tháng đầu tiên của thời tuổi trẻ ảm đạm và những năm về sau của một cuộc hôn nhân lưu đày. Nhiều lần trong hai thời kỳ đó, tôi đã thúc sọ vào bức tường cho đến khi cơn choáng váng xâm chiếm, quật ngã tôi và thế giới sau đó đã không còn hào phóng ánh sáng với tôi. Nếu biết vậy, hẳn cô sẽ quy kết nhân quả ngay rằng, đây là những gì ắt nhận được từ chứng tự hãm hại quá chừng ngu ngốc. Rằng nó có liên quan tới lãnh vực tâm bệnh học. Thế nên tôi sẽ giấu kín chuyện đó, để nguyên nhân tổn thương những rễ thần kinh mắt mãi mãi sẽ là một ẩn số, mở ra vô vàn khả năng suy đoán về những tình huống tai nạn ngẫu nhiên: đập đầu xuống đường hay va vào một bức tường, vô ý.

“Biểu đồ thị lực”, cô nói, và đẩy về phía tôi hai trang phân tích thị lực bằng đồ thị màu. “Anh xem”, cô nói, “đường lượn sóng của cả hai con mắt anh đi xuyên qua các trục màu xanh rất ít, mà đa số, chúng chìm xuống vùng đỏ và vàng. Tỉ lệ thâu nhận hình ảnh của cả hai mắt trong tình trạng này cho thấy vì một tai nạn nào đó, thần kinh thị giác bị suy yếu. Các dây thần kinh sẽ già đi và thị lực sẽ mất dần”. Khi nói điều đó, cô nhìn vào mắt tôi, bằng vẻ âu lo của Thang Duy và thở ra hơi thở quyến rũ của Thang Duy khiến tôi nhận thấy đây không phải là một lời kết án mà là một sự an ủi. Tôi chỉ có thể hỏi lại cô rằng, “Vậy liệu đặt vào đó một thủy tinh thể nhân tạo thì có cứu vãn được gốc rễ của những tổn thương hay không?”. Cô nén tiếng thở dài và xếp gọn trang biểu đồ màu trên bàn, ghép vào tập hồ sơ của tôi. “Không”, cô nói, “nó chỉ làm cho mọi thứ sáng rõ tạm thời. Dĩ nhiên là nó không chạm được mảy may nào vào tổn thương của những sợi thần kinh thị giác. Nó sẽ làm cho anh thấy rõ hơn, nhưng đồng thời cũng có thể tạo thêm áp lực cho các dây thần kinh đang trong trạng thái mong manh nhất”. “Vậy, thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt”, tôi cười nhạt, ghép một ý thơ vu vơ vào trong câu nói, dù văn cảnh đối thoại trong phòng khám kiểu này văn hoa là thứ vô duyên của kẻ thối não. Cô cười, vẫn nụ cười quyến rũ và có phần mỏi mệt của Thang Duy trong các bộ phim. Tôi nói, “Thôi được rồi, tôi đồng ý để thay thủy tinh thể”. Cô tư vấn cho tôi một số loại thủy tinh thể đắt tiền, và một số loại bình thường. Tôi khoanh tròn vào quãng giữa trang giấy. Tôi chọn loại thủy tinh thể ở mức vừa với túi tiền của một thủ thư mới xin nghỉ hưu non.

Bấy giờ, Borges vẫn trầm ngâm nơi góc tường. Hai tay ông vẫn đặt trên bờ cong của chiếc gậy. Một mắt sụp mí, gần như đóng kín, còn mắt kia khe khẽ dịch chuyển con ngươi như đang lần tìm manh mối của bầy mối lúc này đã rúc đến chân kệ gỗ, sắp làm một trận xâm chiếm thứ ba trong cái năm nhiều mưa hơn bình thường. Ông gần như chẳng thiết tha gì với chung quanh. Dẫu vậy, để câu chuyện không trở nên nhàm chán và thần bí tới mức khó tiêu, tôi kể cho ông nghe về trải nghiệm của buổi chiều lạ lùng mà chắc chắn rằng ông chưa từng có may mắn trải qua. Tôi nói về sự tiến bộ của y học nhãn khoa, về thứ thuốc khiến đồng tử giãn nở, ánh sáng bị tán xạ, hình ảnh muôn vật trương phình rồi nhòe nhoẹt, loãng nhạt, kỳ dị. Tôi nói rằng tôi đã mang hai cái đồng tử như thế, lái xe máy đi qua hai con phố, bảy khu chợ, năm cây cầu và bốn con hẻm để trở về nhà, giữa bầy người nhập nhòa và dường như ai ai cũng phát ra những tia sáng trong khi di chuyển. Tôi nói về thứ ánh sáng đã phủ lên hốc mắt tôi và những màn nước trên cao cứ đổ tràn vào con ngươi, chảy lai láng ra quanh thái dương, leo vào vành tai lạnh điếng. Tiếng róc rách của nó chìm nổi trong hơi thở đều đều lạnh lẽo và có phần giá băng của bác sĩ nhãn khoa có nhan sắc của Thang Duy, trong căn phòng tĩnh lặng khiến tôi nghĩ mình đang chìm xuống dòng thác trong một cánh rừng sâu vào mùa đông. Tôi kể về việc con dao rạch mỏng manh đã rạch một vết ngang ngay dưới lớp tròng đã ngấm thuốc tê. Và từ đó, lớp thủy tinh thể mà song thân tôi tạo nên năm xưa đã được hút, quét sạch không dấu vết. Tôi rời bỏ cái nhìn tự nhiên ban phát để nhận lấy một thứ thay thế có nguồn gốc từ một phòng thí nghiệm trên nước Đức, nơi tôi chưa từng đặt chân đến. Borges trầm tĩnh lắng nghe, và trong ánh sáng xiên qua những giá sách, tôi thấy ông thi thoảng gật đầu. Dường như những điều tôi kể ra đây thuộc về một hiện thực quá ư nhạt nhẽo. Điều ông đang bận tâm là đường đi của bầy mối, bao giờ thì chúng lại lần đến những con chữ của ông để mở ra các đường hào đầy vết răng sắc ngọt. Những mê cung và thư viện đã bị vùi chôn ở mặt bên kia vỏ địa cầu mà chỉ có bầy mối biết lắng nghe những tiếng run rẩy trong lòng đất mới thấu được, có thể.

Câu chuyện của tôi vừa kể trên đây chẳng có gì hay ho, thậm chí nó quá chừng lệch nhịp. Tôi chuyển sang diễn đạt về triệu chứng tổn thương dây thần kinh thị giác của tôi bằng việc kể lại trường hợp của ông thầy dạy triết, một chuyên gia về Nietzsche. Thầy buông tay trước sự mù lòa trong khi dịch nốt những trang cuối trong cuốn Anti-Christ. Một bản dịch không hẳn là mạch lạc (mạch lạc làm sao được khi con mắt suy tư đang không nối kết được với con mắt thể trạng), tôi đã phải căng trang giấy sao chụp bản thảo lên bức tường, những con chữ to như nắm đấm chen chúc và khua khoắng quyết liệt, đôi khi chúng rượt đuổi nhau, nhe răng chìa vuốt như lũ chuột bị dồn đến chân tường. Triết lý hùng hồn đến lật tung đền thờ của thượng đế như Nietzsche rồi cũng có lúc lâm vào tình cảnh mỏi mòn đó. Thầy đi đi lại lại trước chiếc bàn gỗ ngổn ngang những cuốn từ điển triết học Kant, Hegel, Thần học, thầy đưa tay mò lên trang giấy, thầy lần qua từng ký tự như một kẻ bị chính các ký tự ám bùa, dẫn dắt vào cõi vô định. Thầy rì rầm đọc một thứ ngôn từ tựa bản tường trình về khải thị cho người học trò đánh máy tiếng được tiếng mất trong âm thanh bàn phím rào rạt. Một bản dịch ra đời mà ở quãng cuối, người dịch không tự dùng đôi mắt trần để dò xét, phê phán hay thiết lập mối liên hệ với các câu chữ. Nó đưa kẻ duy lý và có tâm tính thích gây hấn như Nietzsche đến gần với thi ca minh triết và những lời mật truyền.

Triết học, thi ca và những lời mật truyền đều có chung một cội rễ: những khoảng trống lửng lơ bất xác, cội rễ là lặng thinh. Borges biết rõ điều đó. Khác Nietzsche. Nietzsche thì đặt cược hoàn toàn vào sự sắc bén và kiêu hãnh của ý chí. Sẽ thế nào nếu Nietzsche mù, còn Borges thì không? Có lẽ bản đồ triết học và văn học của nhân loại này vẫn vậy, bạn có thể khẳng định chắc chắn. Borges sẽ viết thêm một số bài thơ nữa, cũng có thể vài truyện ngắn mà mật độ mê cung không vì thế bị triệt tiêu, tuyệt không có gì dễ dàng hơn, theo nghĩa mạch lạc. Bởi từ lâu với ông cái thấy đã không còn ở trên đồng tử của con mắt thể lý. Như một nhà thần bí, ông thấy bằng thứ bóng tối lan dần vào bên trong như cơn bão hoang vu dìu dặt những đụn cát trong đêm thâu sa mạc. Chúng sẽ vẫn là những mặc khải bí mật khiến bạn bị nuốt chửng và sa vào cơn bối rối không cùng. Còn Nietzsche, dù chứng điên hay mù lòa có xảy đến, có lẽ ông vẫn xác quyết một thứ ánh sáng độc nhất: nơi ý nghĩa tồn tại bị truất hữu khỏi bàn tay thượng đế. Ông sẽ vẫn xác quyết rằng “Mắt mới là thứ cho những gì xa thẳm nhất” như đã viết trong lời đề từ của cuốn Anti-Christ mà thầy tôi đã biến đoạn kết của nó thành thi ca bởi cơn mù lòa vây hãm. Sau đó, với Nietzsche, những trang chữ là cuộc quân hành xác quyết con đường tạo dựng bằng những nắm đấm lý trí sẽ mở ra, rực rỡ.

Đi gần đến với Lão Tử, Borges không còn bận tâm tới sự thấy hay mù lòa. Còn Nietzsche thì quả quyết rằng con mắt ý chí mới là thứ sẽ trỗi vượt trên sự mù lòa.

Cô gái rời quầy, bưng khay cà phê nhẹ nhàng đặt lên bàn và ngồi cạnh tôi, tự nhiên như thể tôi và cô đã quen nhau từ lâu lắm. Quán vắng vẻ và tôi chỉ thoáng nghĩ rằng cô ta cần một người để trò chuyện trong lúc rảnh tay.

- Borges ư? Anh có vẻ thích cuốn này?, cô hỏi.

Tôi nhìn mái tóc của cô đang chảy mượt trên đôi bờ vai, bờ môi khẽ mấp máy, bộ ngực vun đầy sau lớp áo dạ giản dị màu xanh cobalt. Tôi hơi ý tứ nhích ghế giữa một khoảng cách gần và đối diện cô, rồi chậm rãi đáp:

- Tôi chỉ gặp ông tác giả này trong kho sách của mình, mỗi ngày như thế. Ông ấy ngồi đó và rồi đi mất, hôm nào cũng thế. Vẫn lặng lẽ như vậy, ông ấy hiện diện, mù lòa và sáng tỏ. Lần nào chạm vào cuốn sách này, tôi cũng có hệt cảm giác ông ấy đang nhìn vào vùng nội tâm tầm thường và xao động của mình.

- Tôi cũng lấy làm lạ khi anh xuất hiện trong quán cùng cuốn sách này. Có lẽ anh bị một chứng ám ảnh nào đó về độ khó của cuốn sách chăng?

- Không hẳn. Chỉ là tôi nghĩ mê cung của ông ta chưa mở cửa cho mình bước vào. Tâm trí tôi một mặt chịu bóng ông bao phủ, mặt khác, lại muốn giải thoát khỏi ông.

- Vậy là anh vẫn đọc tiếp?

- Vẫn. Tôi vừa thoát khỏi một ca mổ. Tôi thoát khỏi chứng mù. Và tôi nghĩ tới Borges tới mức mỗi ngày tôi đều thấy ông ngồi đó, trước giá sách của mình như một bóng ma.

- A, bỏ qua chứng hoang tưởng đi. Nếu có mắc chứng đó thì anh cũng phải tự chữa lấy, chẳng ai giúp được gì đâu. Nhưng điều tôi muốn hỏi là phải chăng anh tìm lại sách của Borges bởi những ám ảnh mù lòa như ông ấy?

- Phải, như ông ấy. Nhưng tôi đã nhận lại ánh sáng. Tôi đã được thay một lớp thủy tinh thể nhân tạo. Và lúc này thị lực của tôi tốt vô cùng. Tôi nghĩ về thể trạng thì tôi đã không còn gì chung với hình dung về ông, nhưng cũng thể trạng tinh anh đó nói với tôi rằng, tôi đã sẵn sàng để đi vào thế giới của cuốn sách của Borges.

- Vậy sao? Anh đang đọc tới truyện nào trong đó?

- Vị vua lạc trong mê cung sa mạc của kẻ thù.

- Ông ta bỏ mạng chứ?

- Phải, ông ta chết sau khi không giam cầm được kẻ thù trong mê cung nhân tạo mà mình cất công xây dựng. Kẻ thách đấu đã dẫn dụ ông ta đi vào mê cung khác, của cát bụi mênh mông...

- Một câu chuyện về sa mạc, cô gái nói. Tôi đọc Borges và không nhớ chi tiết này. Mọi thứ kỳ dị bị xóa đi ngay sau mỗi lần đọc. Nhờ anh nhắc mà tôi nhận ra nó có vẻ quen thuộc. Đúng thật quen thuộc.

Câu chuyện giữa chúng tôi đã gần gũi hơn. Cô rút điếu thuốc và nhẹ nhàng đặt lên môi, khẽ nghiêng vai để mái tóc chảy về sau lưng, và ánh nhìn thả theo màn khói bạc biến hình. Tôi để cuốn sách của Borges lên bàn, bên ly cà phê uống dở. Chúng tôi lặng im. Khói thuốc đang mở ra những ngõ ngách trong tâm trí xao xuyến của tôi. Tôi nhớ ra cũng đã lâu mình không nói chuyện về sách vở văn chương với ai, nhất là với một phụ nữ. Tôi vốn không tin rằng đặc thù não bộ của phụ nữ lại có chỗ cho văn chương hay sự thần bí, họ phù hợp với các phép tính chi li và sự mê tín vô minh. Chí ít, tệ hại thay, những người phụ nữ mà tôi gặp trong đời đã cho tôi thành kiến đó. Vậy mà nay, trong một ngày đời tôi được chiếu rạng bằng thứ ánh sáng tưởng chừng không có thật này: tôi có thể ngồi nói về Borges với một cô gái đứng quầy trong quán cà phê vắng vẻ nơi góc phố nhỏ.

- Tôi đã đọc đi đọc lại cuốn sách mỗi khi quán vắng khách.

- Sao không là một thứ gì khác dễ chịu hơn?

- Đơn giản là tôi không thể dứt nó ra, có điều gì đó hơn cả khao khát được biết ở khoảng giữa các văn bản chồng lấn và xô đẩy lẫn nhau. Trong nhiều năm, tôi mất đi nguồn hứng thú đọc sách. Tôi đã quanh quẩn quá lâu trong những gì quá dễ đoán. Tôi tìm cách thoát ra khỏi chứng lãnh cảm với sách bằng truyện trinh thám, danh tác cho đến các sách về kinh nghiệm thiền định nhưng chúng chẳng ích gì. Borges, từ một cuốn sách y hệt cuốn sách của anh, vào mùa mưa năm trước, có ai đó bỏ quên chỏng trơ ở đây. Nó khiến tôi tò mò và tìm lại được cảm giác với sách. Tôi thấy yên tâm khi có một cuốn của Borges bên cạnh. Nó khiến tôi thấy thế giới còn những khoảng tối, ít ra là thoát khỏi sự trần trụi vật lý. Anh thấy đó, một duyên cớ có phần hời hợt thực dụng quá phải không?

- Không đến nỗi. Chính tôi cũng vậy. Câu chuyện về ám ảnh chứng mù khiến tôi tìm thấy Borges. Và từ đó tôi luôn gặp bóng hình ông hiện ra trầm ngâm dưới những giá sách của mình. Có lúc tôi đã trò chuyện với ông về mọi thứ. Kỳ lạ quá sức. Tôi cũng như cô, thấy an tâm khi có bên cạnh mình cuốn sách không sao thấu đạt được viết ra bởi một người mù lòa.

- Khốn nạn, đây là điểm chung của chúng ta, cô nói, giọng tự trào.

- Điểm gặp gỡ chính là điểm mù, tôi diễn giải, mà chẳng biết cô có cùng cách hiểu điểm mù như tôi nói ra không.

- Anh quá ưa triết lý nghiêm trọng rồi. Tôi chỉ đơn giản thấy thật là vui vì một ngày có ông khách đến đây mang theo đúng ấn bản cuốn sách mà tôi đang đọc. Thỉnh thoảng tôi cũng tự hỏi ai đã bỏ quên nó ở tiệm. Họ đã cố tình bỏ nó đi hay từng xảy ra vấn đề y như mình và tin rằng cuốn sách cố tình để lại sẽ cứu rỗi một ai đó đang lâm vào căn bệnh chán sách.

Câu chuyện của chúng tôi chỉ có vòng vo mãi như thế, trong mối quan hệ xoay vòng Borges cho đến khi tôi rời khỏi quán. Mặt trời mùa hạ chói lói trên đỉnh đầu. Tôi ngoái nhìn lại cô gái một lần nữa. Cô bưng ly cà phê và cái gạt tàn đi vào khung cửa và mất hút ở khoảng tối sâu sau quầy bar. Tôi có hẹn sẽ gặp lại hôm nào đó dù chưa thể xác định là hôm nào. Rằng tôi sẽ mang theo những bản in tác phẩm của Borges mà tôi sưu tầm được. Chúng phải thoát khỏi cái kệ sách phủ bụi để bay đi, đến với một người có thể hiểu nó và cần nó để thế giới này không còn trần trụi như những khối vật lý khô kiệt, phải, đúng vậy đó. Thoát khỏi tiếng rì rầm của bầy mối. Borges cần được giải thoát và không còn con đường quay về cái góc tối kia để trầm ngâm nữa. Cô đáp lại bằng chính điều tôi đã suy diễn ban nãy: nơi gặp gỡ lại chính là một điểm mù.

Bây giờ thì tôi men theo con đường dưới chân cầu vượt để đi về nhà. Tôi hình dung trong căn phòng biệt lập, Borges vẫn ngồi đó dõi theo bầy mối đang mở các lộ trình rạn nứt trong lòng đất để tìm đến với giá sách, nơi những cuốn sách của ông và Nietzsche được đặt cạnh nhau. Từ lâu, tôi đã nuôi một ông Borges câm lặng như thế trong thế giới lạnh lẽo của mình.

Những khối xe container và xe trọng tải lớn đang lê các cuộn thép giằn lên nền đường sức nặng hàng tấn. Có thể cảm nhận được mặt đất rung rinh khi ta bước đi hoặc nằm yên. Bên dưới nền đất tôi đang bước đi là bùn. Một đầm lầy tịch lặng từ lâu đã bị lấp vùi.

Chỉ có lũ mối là biết rõ.

N.V.N
(TCSH439/09-2025)

 

 

Các bài mới
Huyết sương (06/10/2025)
Các bài đã đăng
Dương Quí Phi (25/09/2025)
Mua dù (28/08/2025)
Vua Rang (25/08/2025)
Nàng Shakespeare (08/08/2025)