ĐẶNG VĂN SỬ
1.
Cả vạn đều ra sức tương cứu. Ấy mà, Tiến không được đi. Cậu bị mẹ mình cấm. Dì lặp đi lặp lại từ hôm qua đến giờ với một câu: “Mạ cấm con đi, con đi là hại ông ấy chớ không giúp chi. Tuyệt đối không được”.
Tiến ban đầu cứ ngỡ mẹ sợ mình gặp nguy hiểm khi xuống nước. Cậu ra sức giải thích là mình biết bơi lội: “Mạ ơi, con biết bơi mà. Con đã đạt giải bơi ở trường, mạ cho con đi nghe...”. Chàng trai mười bảy tuổi đầy năng lượng, nhiệt huyết nhưng không được cùng cả vạn tham gia cứu người. Cậu lấy làm khó hiểu, khó chịu song khó nhất là phải cãi lời mẹ. Thấy mẹ rơm rớm nước mắt, cậu đành im lặng và nghĩ: Chắc mạ có điều chi khó nói... Cậu đứng nhìn mãi ra khơi.
Ngoài khơi ấy, người ta đang tìm người đàn ông mất tích. Người thợ lặn nổi tiếng, người săn cá “có nghề”. Người ấy không ai khác chính là lão Lùn. Lão chưa đến năm mươi nhưng đạt được biệt danh “lão” nghe ra “oai phết” và tưởng già khọm. Tuổi tác là một phần, tài năng và đức độ “lại là phần hơn”. Lão Lùn được bà con vạn đò Thủy Diện xưng thành như thế là có ý khen và nể.
Lão lấy vợ hơn hai mươi năm mà chẳng có mụn con. Vợ lão là bà Lài, người con gái xinh tươi, tốt nết, “thắt đáy lưng ong”. Các cụ xưa nói kiểu con gái như bà là khéo chiều chồng và chăm con. Bà Lài lanh lợi, vun vén, chiều chồng thì ai cũng rõ. Khổ nỗi, bà không có con để chăm. Điều này làm bà khổ tâm và nhiều áp lực. Người thương nói lời cảm thông, sẻ chia, kẻ ghét ra điều cay độc: “Cây độc không trái, gái độc không con”. Rồi lời vu vơ, câu nói vô tình có dụng ý, bà thường giấu nước mắt vào tim. Đặc biệt, phía gia đình bên chồng cứ kêu “lào nái”. “Nái” là từ chỉ con vật giống cái nuôi trong nhà, chẳng hạn heo nái; “lào” là thay đổi, thay đi. Ở đây, “lào nái” có nghĩa là thay bà Lài đi, cưới vợ khác cho lão.
Đội cứu người được thành lập một cách nhanh chóng khi được tin lão Lùn lặn đến trưa vẫn chưa về. Thường ngày, mặt trời chưa lên, lão đã vốc mái chầm mang về cho vợ nửa lòng thuyền tôm cá. Cá tôm bà Lài mang lên chợ, con buôn xúm tới “này nị” mua cho bằng được. Bởi lẽ đó là hàng tốt: tôm to, cá béo. Con cá bống tròn múp, con sú nặng hơn lạng; con cua hai càng “tổ bố” trứng đầy... Sản phẩm bà bán thành thương hiệu, đặc sản trong mắt người mua. Đặc sản ấy do lão săn bắt lên từ Rạng.
Rạng hay Rạng Đá, đó là dấu tích công trình đá lắp cửa biển không thành. Công trình ấy là sự kiến tạo, kiến thiết từ những kẻ phương khác tới xâm lăng; chúng hòng chế ngự thiên nhiên và thể hiện sự chế ngự bằng cách chở đá tận non về lắp tận bể. Ban ngày, quân, nhân, tù binh ra sức la hét, thét gào làm việc bao nhiêu thì ban đêm cũng nghe sóng ầm ào, hò reo bấy nhiêu. Bà con ở gần bảo rằng tiếng ban đêm là tiếng của ma. Ban ngày đá đổ cao lên, ban đêm giật dạt xuống. Sau một năm ròng, việc ngăn lấp cửa không thành, lệnh ngừng thành lập. Qua hàng thế kỷ, giờ còn lại dãy đá dài hơn cây số chạy ngầm dưới nước, nó song song với triền phá gần cửa biển.
Rạng có nhiều giai thoại, câu chuyện kể. Chuyện bí ẩn, lạ đời... nhưng chuyện thực tế nhất là ở đây có rất nhiều loài thủy sản sinh sống. Ngư dân đánh bắt ở Rạng luôn được “đầy oai”, dù vậy vẫn ít người làm, nhất là nghề lặn săn cá. Bởi sự nguy hiểm không những các hốc đá, luồng nước xoáy cuốn mà có cả bom mìn, đạn dược. Có lần, một ngư dân nhặt được “vàng”, hóa ra quả 79; gã kịp quẳng đi thì tiếng nổ ầm vang, cánh tay trái lìa mất... Tuy nhiên, tay lặn lão luyện “không sợ trời” như lão Lùn lại chuyên hoạt động ở đấy.
Mười mấy chiếc thuyền nan rời bến, băng qua sông, ngang phá và tới Rạng. Bà Lài không được theo. Bà nưng nức ở đò mà đợi. Theo quan niệm dân gian, khi có người đuối nước, người thân cận không được trực tiếp, tiếp xúc. Nếu “cực chẳng đã” phải bắt buộc cứu vớt thì phải nhắm mắt mà hành động.
Dò dọc, tìm ngang, kiếm quanh... Mươi người “trong nghề lặn” bơi, ngụp, ngoi. Người này ước tính dòng chảy rồi men theo, người kia đoán xác đuối mắc kẹt dưới gầm ri, hốc đá và dò tìm, kẻ đoán hướng lão Lùn hay lặn lội tới. Trai tráng ra sức, người già kinh nghiệm, trung niên tự tin kết hợp cả hai. Họ làm cuộc kiếm tìm với ý niệm nhanh nhất có thể. Vẫn chưa ai gặp lão. Lão đang chơi trốn - tìm. Đến chiều tối, lão vẫn không chịu gặp ai. Cả đội ngấm nước, mệt mỏi. Phía nam trời lại có dấu hiệu mây đen ùn tới, giông gió sắp bắt đầu. Đội tìm người “điểm mặt, thu quân”.
2.
Tối đêm ấy, vạn đò Thủy Diện đèn đuốc chong rạng. Nhưng không khí vẫn u uất, buồn bã. Cảm giác thời gian cứ dài lê thê. “Đêm tháng năm mà dài chi vô hậu”. Cả vạn đò hơn bốn mươi chiếc “xích” lại gần nhau. Ai cũng rờn rợn, lo sợ. Sợ điều gì đó vô hình, mung lung. Sợ tháng năm con ma-rà nổi dậy. Sợ trẻ con dễ bề rơi nước, sợ người già lỡ chân, sợ vạn nhất... Người lớn bảo ban; trẻ con vâng lời ngoan ngoãn. Đàn ông nói lời mạnh mẽ trấn an; đàn bà tâm niệm “lạy trời, lạy Phật” cho yên lòng. Khi sự việc đáng sợ hiện hữu trước mắt, ai cũng ra chiều thánh thiện hơn, thì phải?
Bà Lài hương khói, khấn cầu. Nhiều người đến chia sẻ, động viên, khuyên răn đủ điều. Khuya, bà Lài mệt lử ngồi dựa vào mạn đò gần góc gác bếp. Mượn bóng tối, bà thả tự do dòng nước mắt lăn. Dòng nước mắt nóng hổi chảy xuống má, nước mắt là máu của linh hồn, nỗi lòng thương tiếc về người “đầu ấp tay gối”; người “trao xương gửi thịt”. Nếu nói con gái lấy được người thương mình là hạnh phúc, thì bà Lài được gấp đôi. Vì cả hai vợ chồng bà hết mực yêu thương nhau. Bà nhớ lại có lần bà đã nói với chồng:
- Tui thương mình nhưng mình phải nghĩ tương lai. Mình cho tui về bên ngoại... đặng mình! - Bà Lài rớm nước mắt nói quyết định khó nhất trong đời.
- Không. Không được, đừng có ý nghĩ như rứa. Dù răng thì vợ chồng không thay đổi. - Lão Lùn dứt khoát.
- Tui biết mình thương yêu tui nhưng...
- Không nhưng nhượng chi hết. Tui không cho mình nói như rứa!
Lão ngắt lời bà không để lời đau lòng thêm nữa. Lão kéo bà sát lại và đặt nụ hôn lên trán. Nụ hôn vẫn nồng thắm, tình tứ như thuở ban đầu. Tình yêu vẫn ngọt ngào dâng hiến. Những khát khao đôi bờ trào dâng.
Nhiều lần, bà có ý định xin con nuôi, thậm chí chia tay hoặc cưới thêm vợ cho lão, cả ý nghĩ thúc giục lão kiếm con bên ngoài. “Dù mình có kiếm con ngoài thì tui cũng lấy làm vui”... Ngày cứ ngày trôi qua. Cuộc sống vợ chồng bà đầm ấm, hạnh phúc, khấm khá song vẫn thấy thiếu thiếu.
Đôi khi hai vợ chồng bà nhìn nhau vào chiều tối mà lạnh lòng theo cái rét mùa ập tới ngoài mui. Họ sợ lỡ một ngày, người này đi xa để người kia ở lại thì phải làm sao. Thế là họ trở nên vun vén, lương thiện và giúp đỡ, chủ động thân thiện hơn tất thảy láng giềng.
“Những cái lo lắng tưởng xa xôi, chừ đã đến rồi...”, thoáng đến với bà Lài. Nó vụt tới mỏng manh như sương khói, lát dao liếc nhẹ qua hồn, vết khói xông lên mắt... song chừng ấy cũng đủ cắt cứa, xé nát lòng nhân, đủ chìm đắm con đò....
Ở phía khác, vào đêm cả vạn đò cùng nhau hướng về đò bà Lài, hướng về sự mất tích của lão Lùn thì đò mẹ con Tiến vẫn cứ neo chỗ cũ, vẫn đậu cuối vạn, nơi xa nhất trung tâm. Mẹ Tiến mang mặc cảm là chửa hoang, không chồng mà có chửa. Dì sinh Tiến ra với tất cả hy sinh và cực lực. Bị gia đình bố mẹ bắt khai người đàn ông - tác giả bào thai, dì không khai nên bị đuổi khỏi gia đình. Một chiếc “tròng”, một cây chèo dì ra ở riêng. Tiến ra đời, dì “gánh” hai nhiệm vụ: làm bố và làm mẹ. Dì dạy Tiến phải biết thân thiện, hòa đồng với bà con, láng giềng, biết ăn ở với mọi người. Dì cố gắng cho Tiến được ăn học.
Vạn đò Thủy Diện, ở thế hệ Tiến hồi ấy chỉ mỗi cậu học đến lớp 11, chuẩn bị hè sang 12. Mẹ của Tiến, dì lấy động lực từ con mà sống, vượt qua ngày tháng vất vả, đơn côi...
Đêm nay, Tiến thấy mẹ thao thức, mẹ khóc thầm, mẹ đi ra đi vào mấy lần. Cậu rất lo mà không dám hỏi. Mặc ý nghĩ “thả rông” và bất ngờ “vấp phải” một ước mơ: “Ước chi mình có ba; có ba thì mạ đỡ biết mấy”. Tiến trở mình, dòng tự vấn tiếp: “Ba mình là ai, ở mô? Răng mạ không nói cho mình biết...”. Cậu bước nhẹ ra khỏi mui đứng nhìn ngọn đèn sáng ở đò có người mất tích. Một sự thương mến, cảm thông trong lòng dâng trào: “Rứa là dì Lài còn một mình, không con không cái chi, tội hè!”. Giọt sương khuya đâu đó rơi nhằm vào mắt chàng trai sông nước ướt nhòe.
Sáng sớm, mẹ của Tiến gọi cậu dậy và nói:
- Con nhổ sào chống tới đầu bác... - Giọng bà như lạc đi.
- Dạ là... bác Lùn à mạ? - Tiến vùng dậy và hăm hở hỏi.
3.
Thoắt trông như con lươn to khủng hoặc cỡ con rắn bằng bắp tay, con vật lượn lao dài gần mét; đó là con cá chình to khủng, láng lườm. Mũi đọt ba nanh lao tới với vận tốc trăm ki lô mét trên giờ từ cánh tay phải của thợ săn. Tưởng con mồi dính vào lút nanh nhưng không, cái thân con vật ưỡn cong và xoắn mình búng tới nhanh hơn lò xo thoát nén, nó ung dung tránh đi. Sẩy con mồi trong tầm ngắm là điều chưa có trong đời. Ý định thêm một cú lao định mệnh song hơi thở đã lim hạn, lão bất lực ngoi lên thở “phì”.
Lão liếc mắt về chiếc ghe buông neo cách mười hơi lặn, mọi hôm trước bằng tầm này tôm cá sắp nửa “oai” ấy mà sáng nay “đã hèn còn trật”. Lấy hơi và quẫy chân lao xuống, hai tay lão rẽ màn nước mềm mại như mở khung cửa tự do. Con vật lúc nãy vẫn dong dong trước mặt. Lão tiếp cận con mồi một cách tuyệt đẹp, nhẹ nhàng. Lão tiến sát và ngắm trúng mục tiêu mới ra tay. Là con mèo, con hổ, con sói săn mồi bằng bản năng hay kỹ xảo e cũng vậy. “Xiu” cây đọt xé nước lướt tới chóe lên một đường sáng như lửa bởi ánh tàn cương. Mũi nhọn thép chỉ xước nhẹ trên lưng con cá. Nó lao tới hơn mét rồi lượn lờ. Máu giận trong người lão ứ cả lên...
Ngụp xuống hơi thứ ba, bóng dáng con chình vẫn chưa tan. Nó ám ảnh, trêu ngươi... Lão tịnh tiến và tư thế săn hoàn hảo nhất. “Sự bất quá tam”, lần này mà không xong nữa thì còn đâu! Làm gì có chuyện lạ này? Con vật từ từ lách vào khe đá khuất sau màng rong rêu, tối om. Lão vén màng bơi tới.
...
Đường hầm tối om, nhầy nhụa và dài hun hút, dài mịt mùng, dài đến mất cảm giác không thời gian. Trí tuệ con người lúc này thành nguy cơ bị bác bỏ trong sự u minh. Bóng tối làm mất thị giác. Mắt ra ngoài bước sóng nhìn thấy thì mắt có như không! Song mất cái này thì được cái kia. Bằng trực giác và ý niệm vượt qua đường sẽ gặp khung trời tươi mới. Bình minh trong lòng đã có, lão khoan thai tiến bước.
Sân gạch vuông rộng ngoài trăm thước, hai hàng tượng: văn - võ song song đối diện nhau ở hai bên. Mới nhìn tưởng vậy song khi lão dợm chân xuống nền, hai hàng tượng biến mất. Còn lại biểu tượng linga chồng xếp lên yoni như ý thức có từ thuở khởi thủy hồng hoang và đến mãi vô cùng tận. Đôi linh vật hút vào nhau say đắm, tạo nên dư ba của cõi trần gian. Biết bao tưởng tượng và thực chất chứng minh kiếp nhân sinh cần nhau đối cực như thế. Tiếp đó là một ngôi nhà, tòa nhà, chính xác hơn là tòa tháp nguy nga, lộng lẫy.
Lão tiến vào chẳng mảy may một ai hay trở ngại gì. Tai cố lắng nghe. Đâu đó có tiếng đàn, tiếng sáo rất xa hoặc âm thanh sóng dạt dào. Không gian bình yên đến khó tin. Phải chăng trước lúc bão, đất trời cũng lặng im như thế? Bỗng âm thanh to dần, rít lên và gào thét. Hàng trăm mũi tên nhọn hoắt, bén hơn cả mũi đọt đâm cá của lão. Chúng xuyên không lao vút tới giết kẻ đặt chân xâm nhập vào cửa tháp.
Lão vặn mình lộn tránh màn mưa mũi tên. Công phu hằng ngày của ba mươi năm luyện võ không những để có sức khỏe mà chính ngay lúc này, tự bảo vệ mình, thoát hiểm trong gang tấc. Lão tránh tên bắn như con chình tránh đọt lão, một cách chủ động và không hề gì. Có gì quen - lạ; quên - nhớ thì phải: “A hay, răng mình ở đây, mình đang đi lặn cá mà”. Lão đang tự vấn lòng thì bỗng mắt bị thôi miên bởi vẻ đẹp “cung vàng điện ngọc”. Không ngôn từ, ám hiệu nào song như có phép dẫn dụ ma mị, lão ngồi lên cái ghế dát vàng một cách vô thức. Sự uy quyền, thỏa mãn trỗi dậy lan vào tâm thức, lòng rần rần sung sướng, ngọt ngào khó tả. Tột cùng của vinh quang là vậy. Lão cảm thấy mình có thể “hô mưa, gọi gió”, sai bảo cả trăm vạn người tuân.
Vòng chì buộc ở thắt lưng lỏng và trễ xuống khi lão chễm chệ trên ngai. Áo mão không có, chỉ có một cái quần đùi và “cái kiếm” dắt sau lưng. Kiếm cũng biến thành đọt săn. Lão hiện nguyên hình kẻ thợ lặn.
Nhớ ra mình bị lạc, lão “ba chân bốn cẳng” chạy ra cửa, chạy trở lại hướng mình vừa vào. Chạy như ý thức được mình đang bị “ma dẫn lối, quỷ đưa đường”; chạy thoát hiểm. Vấp. Ngã. Đứng dậy. Chạy. Chạy “bán mạng” là vậy chăng? Lão chúi nhào xuống một đống gạch đổ. Không kịp suy nghĩ, lão đứng dậy chạy, chạy tiếp.
4.
Không khí kiếm tìm người mất tích vẫn diễn ra vào sáng sớm hôm sau, khẩn trương và chưa có dấu hiệu khả quan. Tiếng người hòa với sóng làm rộn ngã tư giao thoa: sông, phá và cửa biển. Người lặn, kẻ bơi, anh neo ghe, chú bơi tới, bác vọc lui, ôn chỉ chỗ... Có tiếng thở dài và rằng:
- Lạy eng, eng linh thiêng thì cho eng em bà tui vớt được chớ ai cũng lo.
- Ừ, lạy eng! Eng là người chuyên giúp đỡ, cứu người thì hôm ni cũng rứa nghe, giúp đỡ cho tụi tui sớm gặp. Trăm vạn lạy eng!
- Chừ tui nói ri nì, bà con nghe hí?
- Thì bác nói đi, lớp bà tui nghe theo!
- Chừ mình mở rộng ra, mấy chú Đối, Ba, Tư, eng em lặn giỏi hướng ra cửa biển còn eng em khác dọc vào sông. - Cụ Bôn, người lớn tuổi nhất trong đội run run giọng nói.
Mọi cân nhắc, tính toán, đoán định được đưa ra và theo phương hướng kiếm tìm.
Ở phần gia đình, bà Lài đỏ hoe mắt, khàn giọng. Mấy mệ, dì, o, chị cứ “rào rào” hẳn lên. “Hôm qua có ai mơ thấy eng không?”. Mọi câu trả lời đều không.
- Rứa thì tui kết luận eng chưa... chưa mất mô nghe!
- Được rứa thì chi bằng!
- Dạ còn mô nữa chị ơi! Chị thương thì nói rứa... hôm qua chừ rồi... - Bà Lài thấm thít ứa nước mắt, lên tiếng.
Ngoài trời sắp nắng nhưng trong mui nước cứ ướt tay áo. Nỗi lòng đồng cảm, sẻ chia và nâng đỡ tinh thần lúc “can qua” thật cảm động tình người.
Thấy chiếc đò nhỏ chống tới gần, mấy người đàn bà ở đò bà Lài lên tiếng:
- Rứa nờ, tới đây mà thăm, mà hỏi. Đậu chi xa đầu nớ!
Tiến chào mọi người. Mẹ của Tiến thì lặng thinh chỉ cúi chào. Dì có vẻ như ngại ngùng, e thẹn. Tiến cắm sào neo đò. Dì bước qua đò bên.
- Cho con bơi ra ngoài... mạ hi? - Tưởng được sự đồng ý là chắc, Tiến dõng dạc xin phép.
- Không, con không đi được. Tuyệt đối không được. Mạ còn có chuyện quan trọng nói với con!
Tiến buồn nghỉu. Định bụng hỏi “vì răng” nhưng không dám. Lời của mẹ với cậu là mệnh lệnh. Mệnh lệnh chưa hẳn vì đúng sai mà trước hết là sự tôn trọng và vâng lời để mẹ yên bụng. Cậu ngồi xuống đầu mũi đò và cảm thấy mình vô dụng.
Sau gần mười lăm phút, âm thanh bên đò bà Lài có vẻ xao động, đỡ trầm hơn. Tiến được gọi sang, cậu tần ngần ngoài rồi được kéo tay vào trong mui đò. Mẹ của Tiến bảo cậu quỳ xuống trước mặt bà Lài và nói:
- Đây là mạ của con, mạ chính!
- Dạ, nhưng mà... - Tiến ngơ ngác.
- Con chính là con của... ba Lùn! Mạ mờn lắm, mờn lắm... - Bà Lài nấc nghẹn cầm tay Tiến.
- Dạ... dạ?
- “Nghĩa tử là nghĩa tận”, nay mạ mới dám đưa con về nhận ba. Mong chị thu nhận đứa con ni, cả tội! - Mẹ của Tiến vừa nói với cậu, vừa nói với bà Lài.
- Được rồi, tui mờn không hết nữa là! Phước ba đời mới được ri. Từ nay dì và con cứ về đây với tui... - Bà Lài mừng ra mặt.
Mọi người ở đó im lặng trong mấy giây. Họ xúc động, mừng cho gia đình lão Lùn được đoàn viên, có người nối dõi. Mừng cho Tiến nhận được cha, từ nay không bị người đời truy vấn.
Tiến lặng buồn, xin phép hai người mẹ bước lui. Bỗng cậu la lên: “Ba ơi”, rồi nhảy xuống ghe, rút chầm bơi hết lực “lao” đi phía Rạng. Lòng cậu có một niềm tin sẽ tìm gặp cha của mình: “Ba vẫn sống, vẫn còn; không thể nào, không thể nào, con phải gặp ba. Đợi con ba ơi...”.
5.
Buổi sáng tháng năm, phía bầu trời thắp lên vầng dương tươi rói. Nắng chiếu xuống dòng nước lặng lờ trong xanh. Người ngồi trên thuyền tinh ý quan sát sẽ thấy: bầy cá đục theo nhau tìm mồi; tía cá đối chạy đua gặp bãi cạn cùng nhau nhảy phà lên; mấy con cá cồi nhảy lên khỏi mặt nước đầu hướng về tây, báo hiệu ngày có ngọn nồm đông; vài ba con cá kìm, mũi nhọn lao đi thật nhanh không khác gì mũi tên rời cung; thi thoảng lưng cá cờ bày kì rẽ sóng... đó chỉ là phần ít thủy sinh bề nổi. Phần ẩn sâu dưới dòng mới đa dạng, lạ lẫm. Người ta bảo bí mật ở rừng sâu song chưa hẳn đã bằng dưới nước. Núi có thể ở đáy biển chứ khó tìm biển ở đỉnh núi.
Đội tìm người vẫn miệt mài quan sát, lặn lội. Ai cũng thấm mệt nhưng rất cố gắng. Vì rằng dù không quý mến lão thì bằng tâm huyết, họ đều phải có ý thức cố gắng hết mình. Thấy chiếc thuyền của Tiến bơi ra vội, một bác lớn tuổi lên tiếng:
- Có chi rứa cháu hay ra giúp lặn?
- Dạ, cháu ra lặn!
Tiến rà mái chầm cho thuyền chậm lại. Cậu nhìn quanh và bơi thẳng tới miếu thờ. Miếu đó được gọi là miếu bà, chính xác hơn là miếu bà Thai Dương. “Cậu ta đến thắp hương, khấn vái...”, ai cũng đoán vậy. Cặp chiếc thuyền vào bến đá định bước lên nền miếu, Tiến phát hiện một người đàn ông nằm ở bậc cấp, cậu nhắm mắt lại và la với ra ngoài.
...
Lão Lùn chạy trở lại với tất cả tốc lực bình sinh, lão chạy ra cổng tòa tháp, chạy lao vào mặt nước. Bồng bềnh, vời vợi. Sự mơ hồ “chọi đạp”, vô thức hay là thuở hồng hoang của vũ trụ hỗn độn hoặc là trong bao bọc thời thai nhi. Thậm chí là giấc mơ, mộng du. Ý thức không còn nhớ gì, biết mình ở đâu, là ai.
Trước đó vài giây, hình ảnh bà Lài thuở đôi mươi, đêm tân hôn hiện về. Lão hạnh phúc nâng chén giao bôi. Thoắt cái, như ai bấm sang trang. Lão thấy mình ở trong đêm mưa gió đang cứu người đàn bà chìm ghe. Họ đưa nhau về, cúc áo người đàn bà mở bung tự bao giờ. Thôi miên. Đắm chìm. Vỡ òa. Đêm giông bão, đêm lạc ngoài vòng thủy chung, một lần đầu và lần cuối cho mãi mãi nhớ nghìn thu?
Lão choàng tỉnh, mở mắt vẫn còn nghe tiếng gọi “ba ơi”, âm thanh tha thiết, xúc động đến cực độ.
- A, lão tỉnh rồi! Tỉnh rồi! - Giọng chú Bi mừng rỡ.
- Mô, thiệt khôn?
- Tỉnh rồi bà con ơi!
- Mờn quá!
- Tổ cha bà vải bây! Làm eng em hai ngày ni hết hơi! - Cụ Bôn, người chú trong họ của lão mắng yêu với vẻ mừng rỡ.
Mãi sau này, khi người ta hỏi, lão cũng chỉ kể lại rằng: lão bơi theo con cá chình, đi vào hang, bước vào tòa tháp kỳ lạ rồi chạy trở ra. Tất cả thời gian ước tính vài giờ nhưng không ngờ thực tế bên ngoài lại hai ngày một đêm. Cũng có thể lão bị đuối hơi, ngất lịm và ngủ quên. “Mọi chuyện cứ như không thực chút nào”.
Điều khó tin là viên gạch lão nắm trong tay ở lần bổ xuống đống gạch lúc chạy từ tòa tháp trở ra lại là viên gạch cổ. Theo các nhà nghiên cứu kiểm tra thì nó có niên đại hơn sáu trăm năm. Có người hiếu kỳ hoặc mấy anh em bảo là “nhà khảo cổ” đến nhờ lão cùng tìm lại hang, lối vào tòa tháp nhưng chẳng tìm ra dù có định vị, đo đạc từng cen-ti-mét. Chỉ thấy đá ở Rạng bị bám bởi rong rêu, hàu hến, san hô... Còn “cánh cửa” kia chỉ mở một lần và khép mãi.
Lão vuốt chòm râu bạc phơ và lầm bầm: “Thôi thì đợi, đợi bao giờ đủ duyên...”. Lão đang miên man thì đứa cháu nội lên năm đã “réo” đòi lão bồng đi chơi. Lão Lùn cười khà và bốc đứa bé lên vai. Lão bước qua đường, tới bờ sông và ngắm ra Rạng. Nơi này giờ chiếc cầu vượt cửa biển dài nhất miền Trung đang tiến gần ngày thông tuyến. Dầm cầu vươn ra như đôi tay khổng lồ kết nối hai mạng cửa; trụ cầu dấn sâu khoan vào tầng đất đáy vững chắc. Không biết có mũi khoan nào dò thấu “tòa tháp của lão” ngày xưa chưa? Gió từ biển thổi lồng mát rượi. Trời ráng vàng hoàng hôn vào thu thật đẹp. Lão nhớ con cá chình năm xưa, lão thèm “ra tay” phóng đọt, phóng sẩy thì được theo vào hang, vào tháp để chứng thực thêm lần ở không thời gian lạ kỳ kia.
Đ.V.S
(TCSH441/11-2025)