Tiết tháng mười, cả vùng đất cát ven sông mùa này chẳng gieo vãi được gì nên vẳng vẻ người qua lại. Quỳnh theo lối ven cồn cát bên sông, nhắm hướng những qủa đồi lúp xúp phía thượng nguồn cắm cúi bước. Thỉnh thoảng, vài đám mây xám xịt từ phía biển ùn ùn bay sà xuống dọc theo sông như hù dọa một cơn mưa đổ ập xuống vô chừng. Trời cuối thu se lạnh mà Quỳnh thì nghe nóng ran cả người. Đáng lẽ ra, khi vừa xuống bến xe, là Quỳnh có thể đón xe ôm theo con đường đất đỏ băng qua cầu Mới về đến làng sớm hơn. Nhưng anh không muốn thế. Đã hơn hai mươi năm rồi, Quỳnh chưa bao giờ đi lại lối đi ven sông này. Con sông Rù Rì vào mùa hạ, lội băng qua, nước không quá gối, nhưng mùa này thì phải qua lại bằng đò ngang. Làng Bồng Lai nằm phía tả ngạn dòng sông tiếp giáp với những quả đồi, chân của dãy Trường Sơn. Quỳnh đang loay hoay trước bức tranh còn dang dở. Trên đồi sim, một góc trời tím ngắt mơ hồ, hàng hàng lớp lớp đôi môi thiếu nữ trổ ra từ những đóa sim... “ Một bức tranh thì có khác gì một bài thơ màu sắc”. Quỳnh lảm nhảm như kẻ mộng du lạc đường. Bất ngờ, tiếng cười con gái trong trẻo từ phía sau lưng anh cất lên. Quỳnh giật mình quay lại. - Anh là họa sĩ của đoàn hát à? Cô gái như từ giấc mơ bước ra nhìn đăm đăm vào bức tranh vừa hỏi anh. - Vâng, thưa cô... Quỳnh chẳng nói thêm được lời nào nữa. Ngôn ngữ chết điếng trước một sắc đẹp. Biết nói thế nào nhỉ, đôi mắt hiền từ như mắt Đức Mẹ, dáng đi thanh thoát, tóc xõa mượt mà như bóng dáng thiên thần, bộ áo quần lụa tím thẳm hơi buồn một chút như bóng của tình nhân... Cô gái bước tới sát bên giá vẽ rồi nhìn Quỳnh nói bông đùa: - Hàng trăm đôi môi thơm này có đôi môi nào của em trong tranh không anh? Quỳnh lóng cóng, trả lời như một phản xạ: - Giá như vẽ được đôi môi đẹp của cô, có chết cũng yên lòng để đời một tác phẩm. Cô gái lại cất tiếng cười trong veo. Dòng thanh âm từ đôi môi cơ hồ như không thực, hoang đường đến từng tế bào da thịt. Quỳnh cố giữ vẻ bình tĩnh, nhìn vào cô gái một cách nghiêm túc hơn. Tiếng cười này anh đã nghe quen lắm, gần gũi lắm. Hình như là nó đã gieo vào anh nỗi đê mê từ dòng sông Rù Rì kia, hay là một nơi nào đó từng làm anh dạt dào cảm xúc khi cầm trên tay cọ vẽ. Những ngày sau đó Quỳnh và Huệ, tên cô gái, trở thành thân thiết với nhau. Nhà Huệ ở giữa một khu vườn dưới chân đồi sim. Khắp vườn, chỉ trồng một thứ hoa trùng tên với chủ nhân của nó. Huệ đang là bí thư xã đoàn. Trong chiến tranh cô được đưa ra miền Bắc học, cha mẹ Huệ đều hy sinh. Đáng lẽ ra, với trình độ xong trung học và lý lịch của mình, Huệ có thể xin một việc nào đó ở các cơ quan huyện hoặc tỉnh khi vừa từ miền Bắc trở về. Nhưng Huệ nhứt quyết về làng Bồng Lai công tác ở đoàn xã. Quỳnh đã hỏi thử lý do, nhưng Huệ trả lời một cách mơ hồ. - Dường như người làng em, xa làng là việc khó nhất trên đời. Ai xa mấy trong chiến tranh rồi cũng trở về. Chết thì nằm trên đồi với rừng sim ấy. Làng nghèo nhất nước, xa thì không ai chịu xa, còn hỏi vì sao thì em chẳng thể nào giải thích. - Có lẽ là đất Bồng Lai thiêng thật. Tôi đến đây rồi cũng muốn ở luôn đây, nói gì em, nói gì người trong làng. Quỳnh nói vu vơ, không hề có ý định tán tỉnh bông phèng. Đất quả lạ lùng, chỉ thích mọc toàn những hoa. Cứ nhìn ra cái vườn huệ hồng kỳ diệu ngát hương kia đã hiểu người xưa đã có lý khi đặt tên cho làng. Trưởng đoàn Bùi Cường đã nhiều lần cảnh cáo Quỳnh về chuyện bê bối trong công tác của anh, nhất là mấy đêm gần đây Quỳnh đi chơi suốt không về. Tất cả rồi cũng qua đi sau khi Quỳnh ngồi viết bài kiểm điểm. Nhưng lần này thì không thể, dứt khoát không thể. Trong lúc cả đoàn đang tất bật lo cho những đêm diễn cuối cùng ở làng Bồng Lai. Một buổi trưa, nhìn vào nhà thông tin thấy cửa khép kín. Bùi Cường nghi ngờ Quỳnh bỏ đi chơi lăng nhăng, ông đến nhìn qua khe hở cánh cửa. Một chuyện động trời xảy ra trước mắt ông mà có lẽ, đến suốt đời cầm chịch ca xướng này sẽ không bao giờ ông gặp lại. Giữa đồ đạc lỉnh kỉnh phông màn thùng rương, nơi dành cho họa sĩ vẽ và thiết kế sân khấu. Một bức tranh thiếu nữ khỏa thân bay lên từ một rừng hoa huệ hồng thắm. Người thiếu nữ trong tranh chính là cô Huệ bí thư đoàn Bồng Lai, còn Quỳnh thì ôm bức tranh ngủ ngon lành. Ngủ say đến độ Bùi Cường mở cửa, dậm những bước chân giận dữ thình thịch xuống nền nhà, miệng liên tục la hét nguyền rủa. Quỳnh vẫn ngủ như chết, anh quên mất cuộc đời đang xảy ra chung quanh. Nhưng trưởng đoàn Bùi Cường đã kéo Quỳnh đứng dậy, tát vào mặt anh hai cái tát nẩy lửa trước mặt đông đảo diễn viên và cán bộ xã đang đứng chật trong phòng. Tất cả sững sờ nhìn anh như nhìn một sinh vật lạc lõng từ một hành tinh xa lạ rơi xuống nơi này. Nhưng Quỳnh quên khuấy hết, anh chạy theo tiếng khóc thét của Huệ từ đám đông lao ra sân bãi về đến tận nhà. Trước mắt anh, một chiếc bóng thiên thần lõa xõa giữa bạt ngàn hoa. Anh bay theo, bay theo chấp chới như rơi vào một vực thẳm không đáy. Cuộc họp chớp nhoáng của đoàn hát sau đó đã quyết định sa thải Quỳnh, họa sĩ của đoàn. Tệ hại hơn nữa, anh còn bị công an xã mời lên cảnh cáo. Thế rồi. một bất ngờ khác lại tiếp tục xảy ra. Cô bí thư xã đoàn can đảm đứng ra bảo vệ cho Quỳnh. Lại thêm một cái giá đắt phải trả, Huệ bị cách chức vì đồng lõa với hành vi gieo rắc văn hóa đồi trụy. Đám cưới Quỳnh- Huệ được tổ chức lặng lẽ sau khi đoàn hát rời làng Bồng Lai được mươi hôm. Đất Bồng Lai lãng mạn cưu mang thêm một đứa con hoang đàng hư hỏng hơn bất cứ đứa nào. Từ đó trên đồi sim tím biếc, người ta lại thấy một đôi trai gái sớm hôm đi về. Chiều chiều, bên ly rượu khề khà với hoàng hôn, những người già làng Bồng Lai thường mở đầu bằng câu chuyện của Quỳnh và Huệ, mà theo họ, chẳng khác gì Tiên Dung và Chử Đồng Tử. Xét về mặt luân lý, thì tình yêu họ Chử còn đồi trụy hư hỏng hơn nhiều, bởi họ dám trần truồng giữa thanh thiên nhật nguyệt. Nhưng thượng đế luôn chơi trò trêu người trước tài hoa và nhan sắc. Hơn một năm sau ngày cưới. Khi Huệ vừa sinh bé Nhàn, đứa con đầu lòng còn đỏ hỏn trong nôi, thì một cơn bệnh quái ác vô phương chạy chữa đã cướp mất sinh mạng của Huệ. Ôm con vào lòng, Quỳnh tưởng không thể nào sống nổi, nhưng tiếng khóc bé Nhàn rát bỏng ngực anh, vực anh đứng dậy. Quỳnh mai táng vợ giữa vườn huệ hồng tươi thắm. Anh lên đồi sim gánh đá về xây tròn mộ vợ, trồng huệ lên che kín nơi Huệ nằm. Ngày ngày ẳm con trên tay, anh chạy khắp làng Bồng Lai xin sữa cho con. Đời sống cha con Quỳnh mỗi ngày bế tắc hơn, anh bế con đứng trước mộ vợ khấn thầm: “ Phải tạm xa em thôi Huệ ơi! Anh phải đưa bé Nhàn về phố, vẽ vời tạm bợ sống qua ngày. Chừng nào con trưởng thành xong anh sẽ về với em”. Lời Quỳnh vọng đến nơi đâu mà gió đồi sim thổi lùa qua vườn hoa huệ sắt se phơ phất, như âm vang một lời hẹn ước từ đâu xa thẳm vọng về. Sau khi gửi phần mộ của Huệ cho bà con họ hàng chăm sóc, cha con Quỳnh lặng lẽ rời làng Bồng Lai vào một sớm mai mà anh không còn nhớ rõ ngày nào. Hai mươi năm lang thang khắp phố người. Đã bao lần nguy kịch áo cơm, bức tranh “ Nàng Huệ” Quỳnh mang theo, đã nhiều khách lịch lãm am tường trả với cái giá hàng trăm triệu đồng. Nhưng Quỳnh nhất quyết không bán. Quỳnh cuốn tròn bỏ vào trong tủ để tránh bớt những cám dỗ của đói no. Mỗi lần nhớ Huệ, anh mở tranh ra xem rồi lại cất vào chỗ cũ. Đám cưới cho Nhàn xong, Quỳnh vui hơn lúc nào hết. Quyết định về làng Bồng Lai, anh đã báo từ lâu với con gái nên không có gì trở ngại. Nhàn biết tính của ba mình, đã từng nghe ba kể về tình yêu với me, nên chuyện ba về làng Bồng Lai chỉ là vấn đề thời gian. Một sớm mai, vợ chồng Nhàn tiễn anh ra bến xe khách, nghe con nhắc về bức tranh, Quỳnh mỉm cười trả lời: - Ba về làng Bồng Lai là phải đi với mẹ con, đi một mình ba chịu sao nổi. Các con đều là thầy cô giáo cả rồi, ba yên lòng và chắc mẹ các con cũng vui thôi. Hè hoặc tết các con nhớ về thăm ba mẹ là quí lắm rồi. Từ biệt vợ chồng Nhàn, Quỳnh bước lên xe khách. Chuyến xe rời bến khá sớm thế mà cứ hỏng hóc dọc đường, đến quá trưa mới về đến thị trấn. Quỳnh mang ba lô cuốc bộ ra bờ sông. Anh đi như trẻ thơ được về nhà với mẹ. Cái thể trạng lúc nào cũng thắc thỏm bần thần. Hai mươi năm rồi, mọi bến bờ bồi lấp như thế này chưa chắc vườn huệ nhà anh vẫn còn. Nhưng không hề hấn gì, rồi anh sẽ trồng lại. Mộ Huệ chắc là hoang tàn lắm, được cái nằm ở chân đồi thì biển dâu khó mà bồi lở, hư hỏng. Quỳnh bước theo ven sông Rù Rì, tiếng nước trôi róc rách bên tai thoáng mơ hồ như tiếng cười trong veo con gái. Anh lại mong cho trời chóng tối, thèm có được một ánh trăng. Nhưng mùa này, trời u ám thế kia thì mong nỗi gì. - Này chú, đi đâu mà lấp gấp thế, lên núi hay qua làng Bồng Lai? Quỳnh giật mình ngẩn mặt rồi quay lại nhìn lui. Thì ra anh đã đến đò bến Đợi mà không hề hay biết, nếu không nghe tiếng người chèo đò nhắc nhở có khi anh lên luôn núi thật. Quỳnh bước lên chiếc thuyền lá, nhìn người chèo đò rất quen thuộc, anh cố nhớ ra tên gọi. - Trời đất, chú là Quỳnh họa sĩ phải không. Tôi là công an xã ngày xưa có lần bắt chú đây mà. - Là anh đấy ư, bây giờ anh chèo đò kia à. Giờ thì tôi nhớ ra rồi. - Dâu bể mà chú ơi, sao chú lại về một mình, cháu Nhàn ở đâu, chắc là nó lớn lắm rồi... Nhớ chuyện xưa tôi áy náy hoài. - Thôi quên đi anh ạ, hồi đó nó phải thế. Nghệ sĩ như ông Bùi Cường trưởng đoàn tôi, còn gấp mười lần anh. Tôi đã lo chồng con cho cháu Nhàn rồi, các cháu đều đi dạy cả. Lần này tôi về ở luôn, không biết vườn huệ nhà tôi đã thành rừng chưa? - Rừng sao được mà rừng. Họ hàng vẫn đến chăm sóc luôn. Tết hay ngày lễ, hoa huệ vườn anh chưng khắp nhà làng Bồng Lai này. Bà con ở đây chẳng ai đi đâu hết, mà ai có đi xa rồi cũng trở về, như chú đây cũng thế. Đất nghèo mà thiêng thật. Câu nói này ngày xưa Huệ đã nói với anh không biết bao lần. Thuyền ra đến giữa dòng sông, mùa tháng mười sông rộng khiếp. Chỉ tiếc là trời u ám quá. Nếu không, một ít nắng chiều cũng làm dòng sông ánh lên vô số mảnh ngọc khoáng. Từ những mảnh ngọc kia, Quỳnh sẽ nhìn thấy đôi mắt Đức Mẹ của Huệ, sẽ nhìn thấy mái tóc thiên thần lõa xõa trên sông nước. Nhưng lo gì, Quỳnh đang về làng Bồng Lai chứ có đi đâu xa xôi nữa đâu. Đà Nẵng 30/10/1999 N.N.T (134/04-00)
|