[if gte mso 9]> Thu Muenchen Thu vàng Yến tiệc không lời Phật… thời trang Choàng khăn “san..(schal)…g” ---------------------- Sau trước gọi thơ Postskriptum (lời sau): Schal (tiếng Đức), Shawl (tiếng Anh), châle (tiếng Pháp), khăn quàng cổ tiếng Việt, thường được các cô các bà gọi theo tiếng Pháp, hay tiếng Đức một cách điệu nghệ, tân thời là “khăn san”…, thêm một chữ “g”, đọc sai… (à la “difference” của J. Derrida, và cuộc chơi chữ chuyển từ Đông sang Tây…) theo tiếng Huế là “sang”, “khăn san…g” lộng lẫy, sang như mùa thu vừa đến vàng óng ả, tưng bừng trong khu vườn hoan ca sắc màu “dạ thưa mùa đã đến rồi” (R. M. Rilke), mùa “thời trang” của vàng và đỏ với tất cả huyền diệu gam màu. “Thời trang”, à la mode, mà không chỉ “mốt” thời trang, đó là dáng đi của thời gian. Chuyển dời, đổi thay, theo mùa, trở mùa, gió lay áo bay. Chỉ duy pho tượng bất động trong vườn. Bỗng có người về… Preludium (lời trước): Nhặt lá vàng! hình như là một động tác mùa thu, những ngọn lá vàng tươi, đẹp quí lạ thường, đang rơi hay đã hạ trần trên khắp nẻo đường. Bất chợt trẻ hay già, ai không một lần cúi xuống nâng niu? Từ Huế mùa đông trở về Muenchen đang buổi giữa thu, chênh vênh múi giờ, đã thấy mình không cầm lòng, vội vã… làm sao giữ được màu lá vàng mãi trong tay. Cũng vẫn ngu ngơ thời thơ dại, hai tay đã đầy mà vẫn muốn hoài hoài ôm mãi. Thôi thì dồn lên pho tượng giữ giùm… Khi gài chiếc lá cuối bên tai tượng đá, bỗng như thấy nét ngài nhếch lên nhìn sang… nửa phần đỏm dáng nửa phần không. Bỗng nghe dịu lòng, không riêng một mình mình. Âu cũng là duyên lá trần gian! (SH275/1-12) |