- Bài thơ dài nổi tiếng của ông là bài thơ Hú (Howl), 1955 bị đưa ra tòa với tội danh “văn hóa phẩm bẩn thỉu” năm 1956 nhưng kết quả ông được trắng án và danh tiếng ông nổi như cồn. Bài thơ này được dịch ra 23 thứ tiếng trên thế giới. Đây là bản cáo trạng đầy phẫn nộ với những hy vọng giả hiệu và những lời hứa bị của nước Mỹ, sử dụng những hình ảnh sống động mạnh mẽ và những câu thơ dài, tuôn trào. Thơ của Ginsberg không nệ hình thức lan man, trùng điệp, mang tính tức thời, trực tiếp bộc bạch, phơi bày (nhất là những khát khao tính dục), rất rõ tính ngẫu hứng. Ginsberg đã làm thay đổi giọng thơ Mỹ và trở thành bộ mặt trung tâm của trào lưu phản - văn hóa những năm 60. Trong thời kỳ nhiễu loạn của những năm 60, 70 đó, giới trẻ Hoa Kỳ coi ông như người dẫn đường về tinh thần, một đạo sư của những kẻ “rời bỏ”, người thuyết giảng về “quyền lực của hoa”. Ông cũng tham gia những cuộc phản đối chính trị và đưa tinh thần ấy vào thơ (đòi quyền tự do, quyền của những kẻ yếu..., chống nhà nước cảnh sát Mỹ, chống chiến tranh Việt và bom hạt nhân). Ông được bầu vào Viện Hàn lâm nghệ thuật và văn chương Mỹ. Ông mất ngày 5/4/1997 vì bị ung thư gan. Ông để lại một sự nghiệp thơ khá đồ sộ trên 15 tập thơ.
- Nhạc sĩ rock và dân ca nổi tiếng Bob Dylan nhận định: “Ginsberg... có thể là ảnh hưởng duy nhất với giọng thơ kể từ sau Whitman”. Tư tưởng thơ ca chủ chốt và quán xuyến của Allen Ginsberg là: “Làm thơ, là viết tất cả những gì đến trong đầu. Tất cả những gì đủ mạnh, đủ sống động để mình phải nhớ... (...) Hiến cho đời một trí óc trung bình nhưng khác biệt hẳn với những giá trị giả tạo bị các phương tiện thông tin và chính phủ nhào nặn, tách hẳn khỏi việc sản xuất hàng loạt những hình ảnh, tạo ra thị kiến giả mạo về tình cảm con người. Cố gắng hết sức đặt ra một tiêu chuẩn giá trị nhân văn khác hẳn với những giá trị máy móc, khác hẳn với mọi giá trị của tiện nghi. Cống hiến một ví dụ như thế, hay một mặt mẫu hình, đối mặt với sự tiêu hủy nhân cách cá nhân đang làm tê liệt cảm giác và phổ biến khắp nơi”.
Nếu tôi giặt giũ quần áo thì tôi sẽ rửa xứ bẩn thỉu Tôi sẽ ném Hợp Chủng Quốc của tôi vào bể giặt, dội xà phòng nước hiệu Ivory (2) vào đó, chà sạch châu Phi, mang hết chim chóc và voi về rừng trở lại, Tôi sẽ rửa sông Amazon và làm sạch vùng Carib với Vịnh Mexico đầy dầu, Cọ hết khói Bắc Cực, quét đi những ống dẫn dầu ở Alaska, Cọ đầm lầy Rocky Flats và
Los Alamos (3) thổi bay chất Cesium lóng lánh khỏi
Love
Canal (4) Súc sạch Mưa Axít trên Điện Parthenon (5) và tượng Sphinx (6), tháo bùn khỏi lưu vực Địa Trung Hải làm cho nó xanh trong trở lại,
Hồ lơ (7) lại bầu trời sông Rhin, tẩy trắng những đám Mây cho tuyết lại trắng như tuyết, Nạo vét các con sông Hudson,
Thames và Nectar(8), tháo hết cặn bẩn khỏi hồ
Erie (9) Sau đó tôi sẽ ném châu Á to bự vào một thùng chứa để rửa sạch máu cùng Chất Da Cam, Trút cả đống lộn xộn Nga - Tàu vào máy vắt, vắt kiệt thứ nước tẩy bá láp của nhà nước cảnh sát Trung Mỹ con đẻ của Hoa Kỳ Và bỏ hành tinh vào máy sấy để trong 20 phút hoặc khoảng Thời gian Vô tận cho đến khi nó trở nên sạch sẽ. 1980 HOÀNG HƯNG dịch (Theo nguyên tác tiếng Anh)
(nguồn: TCSH số 212 - 10 - 2006)
----------------------- (1) Nhà thơ Mỹ (sinh 1925), một gương mặt trung tâm của Trường Thơ
New York . (2) Một sản phẩm được quảng cáo là không gây ô nhiễm môi trường. (3) Một nhà máy ở Colorado sản xuất nguyên liệu cho bom hạt nhân sau bị đóng cửa vì gây ô nhiễm nguồn nước; một thành phố ở
New Mexico là nơi chế tạo bom hạt nhân và khinh khí. (4) Một địa điểm bị ô nhiễm vì phế liệu chứa chất phóng xạ Cesium.
Tên
Love
Canal cũng mang nghĩa “Kênh Tình Yêu” trong tiếng Anh. (5) Kiến trúc cổ đại Hy Lạp. (6) Tượng cổ đại Ai Cập. (7) Giữa thế kỷ XX người ta thường pha một hóa chất có màu xanh lơ (lam) vào quần áo để ngăn cho vải quần áo khỏi ngả vàng. (8) Các con sông ở (lần lượt) Mỹ, Anh và Đức. (9) Một trong Ngũ Đại Hồ ở Mỹ.
|