PABLO NERUDA
Như bộ ngực như tấm lưng trần của một người đàn bà da màu, đó là ấn tượng đầu tiên khi tôi đọc trường ca “Đỉnh Macchu Picchu” của Pablo Neruda. Vạm vỡ quá, u trầm quá, cứ như bản trường ca của một người từ hành tinh khác đến, dạo trên đỉnh Macchu Picchu, và viết ra. Sự vĩ đại lạ lùng khiến ta kinh ngạc. Vĩ đại từ lớn lao, vĩ đại từ nhỏ bé. Khi Neruda viết: “và tựa kẻ mù lòa, tôi tìm về với hương nhài/ của xuân xanh một kiếp người” thì ta hiểu ngay, con người vĩ đại này không phải từ hành tinh khác đến, mà chính từ trái đất dấy lên. Hương hoa nhài đã chứng thực cho nơi sinh ra và trưởng thành của nhà thơ vĩ đại này.
“Đỉnh Macchu Picchu” được viết vào năm 1945, sau chuyến đi đầy cảm hứng của Neruda đến pháo đài trên đỉnh núi Inca cổ đại Macchu Picchu vào tháng 10 năm 1943. Khoảng thời gian này là một trong những biến động lớn đối với Neruda và thế giới. Cuộc hôn nhân đầu tiên của Neruda đã tan vỡ; con gái, cha và mẹ kế của ông qua đời chỉ cách nhau vài năm, sau khi Neruda mất một số người bạn trong Nội chiến Tây Ban Nha.
Những thế hệ hậu bối chúng ta khi đọc tác phẩm này cũng cần biết về xuất xứ của nó, nhưng quan trọng hơn, chúng ta nhập được vào tác phẩm không dễ đọc này, để càng đọc càng thấm, càng đọc càng phát hiện những cái hay của nó. Thiên nhiên luôn xuất hiện trong trường ca này, mỗi lần xuất hiện lại mang những gương mặt khác nhau, nhưng chúng khiến tác phẩm như bay lên, nhẹ nhàng và nhuốm màu hư ảo:
“và, từ chiều cao cây táo, sương
hàng ngàn năm đã lìa bỏ sứ mệnh trong sáng của mình
trên những nhánh cành mong đợi, ôi trái tim,
ôi vầng trán bị nghiền dập
giữa những hang hốc mùa thu!”
Neruda là niềm tự hào của nhân dân và đất nước Chile, cũng là niềm tự hào của những người yêu thơ và mong được sống tự do trên toàn thế giới. Năm 2004, khi có dịp sang Rotterdam Hà Lan dự Festival Thơ quốc tế lần thứ 35, tôi đã được ban tổ chức giới thiệu: “Ở cuộc Festival lần thứ Nhất, Pablo Neruda đã sang Rotterdam tham dự, và ông đã đọc nguyên trường ca “Đỉnh Macchu Picchu” cho những người yêu thơ Hà Lan nghe. Di bản trường ca này đã được ban tổ chức Festival lưu lại như một niềm vinh hạnh lớn lao cho một Liên hoan Thơ quốc tế.”
Nhưng khi là nhà thơ Chile vĩ đại, Neruda không thể chấp nhận “chung sống hòa bình” với bọn độc tài Pinochet. Đảo chính năm 1973 tại Chile là một cuộc đảo chính quân sự lật đổ chính quyền cánh tả của Đảng Unidad Popular, là một sự kiện bước ngoặt của Chiến tranh lạnh và lịch sử của Chile. Sau một thời gian dài gặp tình trạng bất ổn xã hội và chính trị giữa Quốc hội do những người bảo thủ chi phối và vị Tổng thống dân bầu theo đường lối xã hội chủ nghĩa Salvador Allende, Allende bị lật đổ trong cuộc đảo chính. Ông đã tuyên bố không từ chức và bị giết hại, phe đảo chính tuyên bố là ông tự sát. Quân đội đã nắm chính quyền và lập nên chính quyền quân sự. Chỉ sau cuộc đảo chính quân sự vào ngày 11 tháng 9 năm 1973. Neruda đã qua đời chưa đầy hai tuần sau đó, vào ngày 23 tháng 9 năm 1973 tại Phòng khám Santa María ở Santiago, Chile.
Chết như một sự phản kháng quyết liệt nhất, Neruda là nhà thơ dân chủ và tự do tiêu biểu cho các nhà thơ trên toàn thế giới. Hãy đọc những dòng thơ như những lời tiên báo của Neruda trong “Đỉnh Macchu Picchu”:
“Rồi ta trèo lên chiếc thang mặt đất
xuyên qua đám hỗn loạn tiêu điều gớm ghê những rừng cây đã mất,
lên đến ngươi, hỡi đỉnh cao Macchu Picchu.
Thành phố ngất ngưởng, vọi cao của bao tầng đá chất,
chỗ trú cuối cùng của những gì không bị khuất lấp, phủ che
bởi mặt đất trong những lớp áo ngủ vùi.
Trong ngươi như trong hai đường thẳng song song
cái nôi của sấm chớp và của con người
đong đưa theo ngọn gió đầy gai nhọn”
Đỉnh Macchu Picchu tượng trưng cho một thế giới hòa bình, một thế giới tự do và dân chủ, một thế giới mà con người có thể an vui trên đỉnh cao chất ngất. Neruda mơ ước thế giới ấy, và ông đã gặp, đã lên tới đỉnh cao nhất của ngọn núi có từ thời người Inca. Ở đó, ông đã thỏa nguyện.
“Đỉnh Macchu Picchu” là một trường ca ngợi ca hạnh phúc của con người, mãi mãi nó là niềm hân hoan của nhân loại.
Xin trân trọng giới thiệu trích đoạn trường ca này, qua bản dịch ra tiếng Việt đẫm chất thơ của dịch giả - nhà thơ Trần Phương Kỳ.
Thanh Thảo giới thiệu
Đỉnh Macchu Picchu
I
Khoảng không tiếp nối khoảng không như một màn lưới rỗng,
tôi lê bước giữa những nẻo phố và bầu khí quyển nặng nề, tìm đến rồi bỏ đi,
với mùa thu lên ngôi dư hương thoang thoảng
của lá cây, và của tình yêu cao cả nhất
đem đến cho chúng tôi tựa một mùa trăng dài -
giữa xuân xanh biêng biếc và những bông lúa chín -
như dư hương bâng khuâng của chiếc găng tay vừa rơi xuống.
(Những ngày đời rực rỡ
trong xác thân lả mệt: chất thép của ngày rút chắt lại
thành sự im lặng lầm lì của axit:
Đêm trộn lẫn vào chất bột cuối cùng:
những nhụy hoa tàn hư của đất mẹ hôn phối).
Ai đó đã đợi tôi giữa những tiếng vĩ cầm
để mở phơi một thế giới tựa ngọn tháp bị chôn vùi
tầng xoáy ốc lún sâu hơn tất cả
những lớp lá màu lưu huỳnh gờn gợn:
sâu hơn nữa, xuống tận mạch vàng địa chất,
như lưỡi gươm được bọc kín trong nhiều thiên thể
tôi nhúng tay tôi ngọt ngào và khuấy động
vào tận lòng sinh sôi của trái đất.
Tôi ép trán mình vào những đợt sóng thẳm sâu,
rơi như giọt nước xuống cõi bình yên nồng chất lưu huỳnh,
và tựa kẻ mù lòa, tôi tìm về với hương nhài
của xuân xanh một kiếp người.
VI
Rồi ta trèo lên chiếc thang mặt đất
xuyên qua đám hỗn loạn tiêu điều gớm ghê những rừng cây đã mất,
lên đến ngươi, hỡi đỉnh cao Macchu Picchu.
Thành phố ngất ngưởng, vọi cao của bao tầng đá chất,
chỗ trú cuối cùng của những gì không bị khuất lấp, phủ che
bởi mặt đất trong những lớp áo ngủ vùi.
Trong ngươi như trong hai đường thẳng song song
cái nôi của sấm chớp và của con người
đong đưa theo ngọn gió đầy gai nhọn.
Mẹ của đá, tinh khí của kền kền.
Cột buồm vút cao buổi bình minh nhân loại.
Cái xẻng vùi mất trong lớp cát nguyên sơ.
Đây là nhà quê, đây đang là phế tích:
nơi đây những hạt lúa nảy mầm tung tóe
rồi rơi xuống như mưa đá đỏ.
Nơi đây tơ lông vàng óng của loài ngựa quý
mặc vào cho tình yêu, cho những nấm mồ, cho mẹ hiền,
cho vua chúa, cho những kẻ nguyện cầu, cho những chiến binh.
Nơi đây con người dừng chân trú ngụ qua đêm
bên những bàn chân đại bàng, trong những hang động
sừng sững ngất trời
của muôn loài thú dữ, và vào lúc tinh mơ
giẫm từng bước sấm sét lên sương mờ lớp lớp lan xa,
sờ vào đất và đá
vào tận lòng nhận biết trong đêm sâu hay trong cái chết.
Ta thấy trang phục và những bàn tay,
vết xói nước trong khe sét đánh,
bức tường mòn bởi từng khuôn mặt chạm
ở đó những ngọn đèn trần gian được nhìn bằng đôi mắt ta,
những thanh gỗ tiêu hao được bôi dầu bằng đôi tay ta,
vì mọi vật - áo quần, chiếu chăn, hũ lọ,
ngôn từ, rượu nho, bánh mì -
đều đã mất, đã rơi vào lòng đất!
Và không khí tìm về với mùi thơm cam nở
mân mê mọi vật đang ngủ say:
ngàn năm không khí, tháng tháng ngày ngày không khí,
ngàn năm ngọn gió xanh trời, ngàn năm ngọn núi cao sắt đá,
như những cơn bão rớt dịu dàng từng gót chân
làm bóng ngời vương triều cô đơn của đá.
VII
Tất cả các anh chết cùng vực thẳm, bóng tối hố sâu đơn độc -
chỗ thăm thẳm - chừng như chứa đựng
tầm cao thực sự của các anh,
cái chết chân thật, cái chết hoàn hảo nhất
đã đến, và từ đá tảng chạm trổ,
từ những cột trụ đỏ bừng,
từ những vòm cổng xếp lớp,
các anh bị tuột xuống như một mùa thu
trong cái chết lẻ loi.
Ngày nay không khí trống trơn chẳng còn khóc nữa,
nó không biết nữa những bàn chân lấm bùn của các anh
những cái bình của các anh giờ đã bị lãng quên cái bình
trút nước từ trời cao
khi bị những con dao sấm sét chém vỡ,
và gốc cây đồ sộ của các anh bị tiêu mòn
bởi mù sương, bị đốn nhào bởi gió lạnh.
Nâng một bàn tay lên bàn tay chợt rơi
từ đỉnh cao xuống tận đáy thời gian,
giờ đây các anh chẳng còn nữa, những bàn tay lưới nhện,
những tơ mành mỏng mảnh, mạng nhện rối mù,
các anh là tất cả những gì đã gãy đổ: những phong tục tập quán,
những vần điệu trau chuốt, những mặt nạ sáng lòa.
Nhưng sự có mặt thường xuyên của đá và lời:
được nâng lên như ly rượu bởi những bàn tay
của tất cả cái sống, cái chết, được giữ yên - được chống đỡ
bằng biết bao nỗi chết: phố phường - thành lũy, được tô điểm
trang hoàng bằng bao nhiêu cuộc đời
của từng phiến đá: đóa hồng thường hằng, quê hương:
cánh buồm Andean này của những vùng lãnh địa giá băng.
Khi bàn tay lấm màu đất sét
đã quay về với đất sét, và những mí mắt nhỏ nhoi khép lại
đầy những bức tường thô kệch tồn tại với thành quách lâu dài:
và loài người đặt mọi vật nằm hỗn độn trong hố sâu của nó:
sự chính xác phơi bày trên cao:
quang cảnh vút cao của bình minh nhân loại,
cái thùng cao vời nhất chất chứa niềm im lặng,
một đời của đá sau bao nhiêu là những đời người.
X
Đá trong đá, con người, ngươi ở đâu?
Không khí trong không khí, con người, ngươi ở đâu?
Thời gian trong thời gian, con người, ngươi ở đâu?
Phải chăng ngươi cũng chỉ là một mảnh nhỏ nhoi
của con người bất tận, của con đại bàng trống không
kẻ mà qua những nẻo phố hôm nay, qua những dấu chân,
qua những cánh lá mùa thu chết
đang vùi dập tâm hồn xuống tận đáy mồ sâu?
Tội nghiệp bàn tay, tội nghiệp bàn chân, tội nghiệp cuộc đời...
Tháng ngày ánh sáng tiêu tan
trên ngươi, như mưa,
trên cờ xí ngày lễ hội,
chúng có ban cho cái miệng trống rỗng của ngươi
từng cánh mỏng dưỡng chất hẩm hiu đen đúa?
Cái đói, chỗ cạn khô héo hắt của người,
cái đói, cỏ cây bí hiểm, gốc rễ của người thợ rừng,
cái đói, phải chăng là những mép buồm tơi tả của các anh
vươn trèo lên tận những ngọn tháp cao trống trải này?
Ta van người, hỡi muối mặn của những con đường đất,
chỉ cho ta chiếc thìa, cho phép ta, hỡi nghệ thuật kiến trúc,
được nhấm nháp từng mẩu nhỏ nhụy thơm của đá,
được trèo lên tất cả những bậc thang không khí để đến tận cõi không,
được dò tìm vào tận nội thể sâu kín cho đến khi chạm gặp con người.
Hỡi Macchu Picchu, có phải người chất chồng
đá lên đá, và dưới nền là manh áo tả tơi?
Than chồng chất lên than, và dưới nền là những dòng nước mắt?
Lửa trong vàng, và giữa lửa run run,
Tia máu đỏ lớn lao tung tóe?
Buông ra cho ta kẻ nô lệ ngươi đã vùi chôn!
Hãy phun ra từ hồn ngươi mẩu bánh mì khô cứng
của kẻ khốn cùng, hãy chỉ cho ta mảnh khố
của người nông nô, và cửa sổ của họ.
Hãy kể cho ta họ ngủ thế nào khi họ sống,
hãy kể cho ta, phải chăng giấc ngủ họ èo ọp chập chờn, như cái hốc đen điu
lủng mòn trong bức thành mệt nhọc.
Bức thành! phải chăng trên giấc ngủ của họ
đè nặng từng lớp đá, và họ đã ngã xuống cùng giấc ngủ dưới đá tảng
như dưới một vầng trăng!
Hỡi châu Mỹ xa xưa, nàng dâu bị vùi dập,
phải chăng những ngón tay của người,
cũng mò mẫm dò tìm từ rừng sâu đến cõi không cao ngất của thần linh,
dưới cờ phướn hôn phối của ánh sáng và nghi lễ,
hòa lẫn với tiếng trống sấm sét và những mũi lao,
phải chăng những ngón tay của người, của chính người -
những ngón tay mà đóa hồng trừu tượng, đường thẳng lạnh lùng
và khuôn ngực đẫm máu của hạt nhân mới đã mang đến
tấm vải dệt rực rỡ, đến hang hốc lởm chởm góc gai,
phải chăng người - hỡi châu Mỹ bị vùi chôn, người cũng bị bủa vây
trong chốn thấp hèn tăm tối nhất,
trong ruột gan cay đắng, như con đại bàng, người cũng bị đói khát đớn đau?
XII
Hỡi người anh em, hãy đứng lên cùng ta để được sinh ra.
Từ cõi miền thăm thẳm của dày vò ray rứt trải rộng mênh mông
hãy trườn nắm tay ta.
Bạn sẽ không bao giờ về lại với vực thẳm đá đen.
Bạn sẽ không bao giờ về lại với thời gian vùi lấp.
Tiếng nói bị bóp nghẹt của bạn sẽ không bao giờ trở lại.
Đôi mắt bị đâm đui của bạn sẽ không bao giờ trở lại
hãy ngước nhìn ta từ những vực sâu trái đất.
Hỡi người nông dân, hỡi người thợ dệt, hỡi kẻ chăn cừu thầm lặng:
hỡi người chăn dạy lạc đà,
hỡi người thợ nề của giàn xây đầy thách thức,
hỡi người gánh nước của những dòng lệ Andean,
hỡi người thợ vàng của những ngón tay hang động,
hỡi người thợ gieo run run trong hạt giống,
hỡi người thợ gốm ngã vùi trong đất sét -
hãy đem hết những âu lo thấp thỏm chôn sâu xưa cũ của các anh
đến chiếc ly của cuộc sống mới này.
Hãy chỉ cho ta dòng máu và vết hằn của các bạn,
hãy bảo ta: nơi đây tôi đau khổ
vì ngọc ngà không chiếu sáng hay mặt đất
không sản sinh đá tảng hoặc hạt mầm đúng hạn:
Hãy chỉ cho ta tảng đá nào bạn ngã xuống,
trụ gỗ nào bạn bị đóng đinh.
Hãy thắp cho ta những hòn đá lửa,
thắp những ngọn đèn xa xưa, thắp những lằn roi hằn
trong các vết thương qua bao thế kỷ
và những chiếc rìu lóng lánh màu máu đọng.
Ta tìm đến để nói qua cái miệng đã chết của các bạn.
Từ bên kia thế giới hãy góp lại tất cả
những làn môi rạn nứt lặng câm
và từ vực sâu hãy trò chuyện cùng ta qua suốt đêm dài này như ta đã cùng
các bạn từng buông neo nơi đó.
Hãy kể hết ta nghe, chuỗi này qua chuỗi nọ,
khâu này nối khâu kia, bước này sang bước khác,
hãy mài bén lưỡi dao bạn quen gìn giữ.
Đem đặt chúng lên ngực lên tay ta,
như dòng sông lưỡi tầm sét vàng rực,
như dòng sông hổ báo chôn vùi,
và hãy để cho ta khóc, khóc từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm,
từng thời đại mù lòa
từng thế kỷ đầy sao.
Trao cho ta niềm câm lặng, dòng nước, nguồn hy vọng của các bạn.
Trao cho ta sức đấu tranh, sắt thép, núi lửa của các bạn.
Hãy kết chặt thân thể các bạn vào ta như đá nam châm.
Hãy chia sẻ mạch máu và miệng của ta.
Hãy nói bằng lời và máu của ta.
Trần Phương Kỳ dịch
từ bản tiếng Anh của Kate Flores và của Nathaniel Tarn
(TCSH439/09-2025)