NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Nhân đọc các tác phẩm của Trương Quang Đệ xuất bản từ 2019 - 2024)
1. Bắt đầu từ một cuốn sách “phá cách”
Nhan đề bài viết bắt nguồn từ cảm hứng khi đọc cuốn sách mới nhất của một… ông già 90 tuổi đã dành một phần ba cuộc đời sung sức nhất cống hiến cho miền đất núi Ngự sông Hương và gửi gắm tác phẩm có lẽ là cuối đời cho Huế. Đó là cuốn Đối thoại giữa các thế hệ (Nxb. Thuận Hóa, tháng 12/2024) của thầy Trương Quang Đệ - một cuốn sách “phá cách” vì không thể xếp vào thể loại nào.
Tuy vậy, đây không phải là bài giới thiệu hay bình luận về cuốn sách này. Cũng vì thật khó giới thiệu để bạn đọc cảm nhận được tương đối đầy đủ nội dung phong phú và tính đa dạng, đa thanh của một tác phẩm bao gồm tiếng nói của hơn ba chục tác giả - trong đó rất nhiều tên tuổi là nhà văn, giáo sư, tiến sĩ - thầy dạy các trường đại học, đồng thời là những bậc “thầy từ xa” của tôi. Xin phép “điểm danh” các tên tuổi đã cùng trò chuyện với tác giả: Đạo diễn - nhà văn Nguyễn Thị Xuân Phượng, tác giả cuốn hồi ký nổi tiếng Gánh gánh… gồng gồng; người đã mang tranh Việt Nam đến nhiều nước trên thế giới, nhà thơ siêu thực - nhà nghiên cứu tâm lý Hoàng Thụy Hưng; thầy Đỗ Trinh Huệ - nguyên Chủ nhiệm khoa Pháp ngữ Đại học Sư phạm Huế, tác giả bộ sách về linh mục - nhà văn hóa L. Cadière; Nguyễn Thị Ngọc Hải - nhà văn, nhà báo, tác giả cuốn sách về nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn; Trần Văn Công, Giám đốc Trung tâm Pháp ngữ châu Á - Thái Bình Dương; Trần Đình Hằng - Phân viện trưởng Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam tại Huế; Lê Hoàng Linh, nhà giáo dục và hoạch định tài chính cá nhân… Chưa hết, còn 8 tác giả viết về thầy Trương Quang Đệ bằng tiếng Pháp, trong đó có GS. Nguyễn Lân Trung, Nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội và nhiều vị trí quan trọng trong các đoàn thể xã hội (như Chủ tịch Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Pháp - Việt)… Các bài viết không có bản dịch, tôi chỉ có thể đọc lõm bõm vài từ trong đề bài như “Science et Rêve…”, rồi “Un petit livre d’ une grande valeur….” (hình như có nghĩa là “Khoa học và mơ mộng…” và “Một cuốn sách nhỏ của một giá trị lớn…”) đã thấy… choáng! Viết về một chuyên gia Pháp ngữ thì cũng trích vài “chữ Tây” cho có “không khí”; chứ nếu giới thiệu sách thì đây là điểm đáng “chê” vì không in kèm bản dịch. Bảy bài thơ của Trương Quang Đệ in cuối sách, để nguyên văn tiếng Pháp còn “có lý” vì dịch thơ cho hay không dễ… Nhưng thôi, “bỏ qua” vì biết đâu chính Trương Quang Đệ không muốn dịch, do ngại mang tiếng khoe các câu khen ngợi “có cánh” như “…Ce grand francophone de coeur et d’esprit, Mon Maitre Đệ!” (ba từ viết hoa tạm dịch “Thầy Đệ Viết Hoa của tôi” là sự trọng thị hiếm có!) của ông Trịnh Văn Minh - nguyên là Trưởng Khoa Pháp, Đại học Sư phạm Huế và là người có nhiều hoạt động đối ngoại trong cộng đồng Pháp ngữ… (Từ đây, khi nhắc đến Trương Quang Đệ, tôi xin dùng chữ Thầy viết hoa).
Danh sách còn dài nữa, nhưng từng đó tên tuổi là đủ để chúng ta suy ngẫm về vị thế và phẩm cách của Trương Quang Đệ, nếu câu ngạn ngữ hình như xuất xứ từ nước Anh là đúng: “Hãy cho tôi biết bạn của anh là ai, tôi sẽ chỉ cho anh biết, anh là người như thế nào”. Việt Nam ta cũng có câu tương tự: “Đi với Bụt mặc áo cà sa…”. Như những gì tôi được biết, Trương Quang Đệ không bận tâm đến những điều đó. Nếu tôi không nhầm, Thầy không có một danh hiệu “đính kèm” nào hết! Không NGƯT hay NGND, cũng không T.S, không PGS hay GS chi cả, mặc dù không ít tiến sĩ, giáo sư kính cẩn thưa Thầy Trương Quang Đệ! Trong thời đại không ít người chạy chức chạy quyền, mua danh bán tước, một nhân cách không ham danh lợi, một thầy giáo mà cái thực vượt quá cái danh như Trương Quang Đệ đã tạo nên sức hút đối với nhiều thế hệ cũng là điều tất nhiên. Và cũng là điều tất nhiên, những cuộc đối thoại với những tên tuổi như thế, với đề tài và tâm thế hết sức tự do, đã mở ra trước bạn đọc rất nhiều cánh cửa để nhìn ra thế giới xung quanh cùng vô số các vấn đề đang được xã hội quan tâm; từ đó nhìn lại chính con đường mình đã đi, soi rọi tận sâu thẳm lòng mình; từ đó, tôi lại thêm một lần được “nghe” Trương Quang Đệ “tự bạch”. Nói vậy, vì mấy năm qua, tôi có may mắn đã được đọc mấy cuốn sách của Trương Quang Đệ (Bâng khuâng cảm xúc về thời cuộc I và II, hai tập truyện…), trong đó có không ít bài, tuy không phải hồi ký, nhưng là những trang “tự bạch” rất chân thực về cuộc đời tác giả.
Từ tất cả những điều đó, tôi nghĩ cuộc đời một nhân vật sống gần một thế kỷ, nếm trải đủ “hương vị” ở 3 châu lục (Á, Âu, Phi) và ba chế độ như Trương Quang Đệ, có thể gợi chúng ta suy ngẫm về môi trường văn hóa, về những điều kiện để hình thành, nuôi dưỡng cốt cách một con người.
2. Thêm một “cánh cửa” giúp hiểu sâu hơn về văn hóa
Với một đề tài như thế, thông thường cần nói trước hết đến “xuất xứ” của nhân vật, nhưng tôi học theo “kiểu” phá cách, không rập khuôn của Trương Quang Đệ như tôi được biết, nên bắt đầu bằng các ghi nhận lần đầu có dịp “giao lưu” với Thầy.
Trương Quang Đệ thuộc lớp đàn anh của tôi, cách đây hơn chục năm chỉ mới nghe tiếng Thầy qua các vị ở Khoa Văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế rồi mối “duyên” khởi nguồn sau lần gặp nhau tại buổi giới thiệu cuốn sách Không có bản sắc văn hóa của triết gia Pháp François Jullien, tại Đại học Ngoại ngữ Huế năm 2019. Tình cờ thôi, nhưng với một chuyên gia Pháp ngữ, mối “duyên đầu” lại nhờ một cuốn sách của triết gia Tây đã có trên chục đầu sách được dịch ở Việt Nam, xem ra là điềm lành, nên suốt từ đó đến nay, có cuốn sách nào mới, Trương Quang Đệ đều gửi cho tôi và có dịp gặp nhau trong ngôi nhà yên tĩnh nằm khuất trong ngõ nhỏ đường Phan Đình Phùng, anh em trò chuyện có vẻ tâm đắc. Tuy vậy, buổi đầu gặp gỡ, trước một tác phẩm của triết gia luôn đặt vấn đề một cách “nghịch đời” - trong khi thiên hạ hô hào giữ “bản sắc văn hóa” thì cái lão triết gia Pháp này dám bảo KHÔNG CÓ BẢN SẮC VĂN HÓA - và trước một cử tọa hầu hết là trí thức, tôi chỉ lặng nghe các tên tuổi như Bửu Ý, Bửu Nam, Đỗ Trinh Huệ… “phản biện”. Thú thật là tôi không còn nhớ hôm đó Trương Quang Đệ đối thoại với các trí thức Huế như thế nào, nhưng ấn tượng còn lại là một “thắc mắc”: Cái “ông già” hom hem, gầy gò, gió mạnh xô cũng ngã, nói năng thì nhỏ nhẹ, khiêm nhường sao mà có “gan” dịch tác phẩm “nghịch đời” này, lại tin cậy trao cho Nhà xuất bản Đại học Huế in, rồi ra mắt cũng tại xứ sở đặc biệt coi trọng bản sắc văn hóa! Lạ thật! Nhưng rồi dần dà, tôi cũng hiểu ra, cho đến hôm nay, sau khi đọc những điều Trương Quang Đệ “tự bạch” qua cuốn sách mới Đối thoại giữa các thế hệ, mọi điều đều sáng tỏ. Một người đã gắn bó, hiểu và tin yêu Huế như Trương Quang Đệ và ngược lại, Thầy cũng biết mình được Huế yêu quý và tin cậy nên đã chọn Huế để gửi gắm một cuốn sách tưởng là “nghịch đời”, nhưng thật ra đọc và suy ngẫm kỹ, thì ra François Jullien chỉ mở ra một “cánh cửa” - một cách nhìn mới về văn hóa…
Dài dòng về cuốn sách một chút vì thật là thú vị, sau 5 năm, kể từ lúc Nxb. Đại học Huế in, phát hành cuốn sách trong diện hẹp như một “thử nghiệm”, thì cuối năm 2023, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật cho in, phát hành rộng rãi tác phẩm này. Có thể nói đây cũng là một “cánh cửa” vừa mở thêm - một dấu hiệu tích cực về sự thông thoáng tư tưởng. Có thể chính vì thế, trong Đối thoại giữa các thế hệ, Trần Đình Hằng dành đến 15 trang để Trương Quang Đệ “giải trình” thêm về cách đặt vấn đề của triết gia Pháp. Trương Quang Đệ cho biết: François Jullien viết cuốn sách này vì trong nhiều năm ở Pháp và cả châu Âu, cả trong lúc tranh cử Tổng thống và cả một Ban nghiên cứu của Liên minh châu Âu, “không ai nói rõ được bản sắc văn hóa dân tộc là cái gì…”. François Jullien viết: “Tôi cho rằng một cuộc tranh luận về “bản sắc” của văn hóa là tranh luận sai lầm về nguyên tắc. Vì thế tôi đề nghị một sự chuyển dịch về khái niệm. Trong sự tiếp cận sự đa dạng của các nền văn hóa, thay vì dùng từ “khác biệt”, ta dùng “khoảng cách”, thay vì “bản sắc”, ta dùng “nguồn nuôi dưỡng” hay “sự phong phú”…”.
Giải thích sự khác nhau giữa hai khái niệm “khác biệt” và “khoảng cách” về phương diện nhận thức, tác giả viết: ““cái khác biệt” có “tính phân loại” và “khi sự so sánh đã xong, hai vế được so sánh mỗi vế đi về một ngả, co lại trong đặc thù của mình”; trong khi đó, “khoảng cách” gợi lên một hình ảnh không phải để nhận dạng mà để khám phá thăm dò… mỗi vế vẫn đối mặt với vế kia, luôn mở rộng vươn về vế kia”; và từ đó “…xem xét văn hóa dưới góc nhìn khác biệt sẽ dẫn ta đến mong muốn cô lập từng nền văn hóa và gán cho nó một bản sắc…”, ngược lại, trong “khoảng cách”, hai vế được phân tách… cái này tựa vào cái kia, một cách tựa sôi nổi, không ngừng ganh đua với nhau… khám phá lẫn nhau, vừa thăm dò vừa soi mình vào nhau. Mỗi vế nhờ vế kia mà tự biết mình nên không thể co lại trong cái gọi là bản sắc của mình…”.
Từ quan niệm trên, tác giả đưa ra một khái niệm mới khá thú vị: Đó là “cái giữa” rất sinh động mà ông cho rằng “chúng ta không biết tư duy “cái giữa”… Nói một cách chính xác thì “cái giữa” không tồn tại… nhưng nó tạo ra suy ngẫm… vì hai vế tách rời nhau nhưng không ngừng tham vấn nhau qua “cái giữa”… mở rộng thênh thang… Đó chẳng phải là điều mà các mối quan hệ văn hóa có thể tận dụng thay vì co cụm lại sau những “khác biệt”?...”.
Tôi bỗng nhớ, trong cuộc giới thiệu sách 5 năm trước, nhà văn - dịch giả Bửu Ý, phát biểu đại ý: Nếu ta thay nhan đề có tính khẳng định Không có bản sắc văn hóa bằng một câu hỏi “Có bản sắc văn hóa Huế không?” thì sẽ có 3 lời đáp: 1- Có; 2- Không; 3- Đương nhiên có. Bửu Ý không “bỏ phiếu” cho ý kiến nào nhưng nhận xét: “Nói đương nhiên co ́ là hàm ý tự hào…”. Điều này thì quá rõ, nhưng chính trạng thái tâm lý này rất dễ dẫn đến hệ quả xấu là “co lại trong cái gọi là bản sắc của mình” chứ không muốn “mở rộng… thăm dò khám pha”́ các nền văn hóa khác như François Jullien đã viết. Cũng có người khẳng định “có bản sắc văn hóa Huế” và cho rằng bản sắc đó không còn nguyên vẹn như xưa, nhưng nếu hỏi “bản sắc văn hóa Huế là chi?” thì có lẽ đến… hết thế kỷ định nghĩa không ra, hoặc không được đa số đồng tình. Ví như nếu nói bản sắc văn hóa Huế là tôn trọng lễ nghi lúc cúng tế, hay chiếc áo dài tha thướt thì nhiều vùng đất cũng “nghiêm ngặt” khi cúng bái và từ xưa, rất lâu rồi, phụ nữ nhiều nơi cũng đã mặc áo dài!
Xem ra François Jullien nói đúng, khi ông thay việc hô hào giữ “bản sắc” là cái không dễ “điểm danh” (hoặc không cố định) bằng việc bồi đắp “nguồn nuôi dưỡng văn hóa”. Như vậy, với Huế, thay vì bàn cãi “bản sắc” là gì, chúng ta cùng nhau “liệt kê” những gì là “nguồn nuôi dưỡng” văn hóa Huế có lẽ sẽ có ích hơn. Ví như nếu chúng ta cho rằng đó là sông Hương và nền nếp gia phong của một vùng đất trải mấy trăm năm là “kinh đô” thì hệ quả sẽ là việc phải có biện pháp bảo vệ sông Hương xanhsạch-đẹp và chọn lọc những gì là tốt đẹp của “nền nếp” Cố đô xưa (từ cách chào hỏi, cách ăn uống, ngồi nằm…) soạn thành “bài tập” cho học sinh ngay từ cấp I - những công việc hẳn là sẽ được đa số công chúng tán đồng.
Một điều cũng nên nói thêm là mặc dù François Jullien khẳng định Không có bản sắc văn hóa, nhưng ông lại rất coi trọng các “nguồn nuôi dưỡng” văn hóa và lo ngại chúng đang bị đe dọa; do đó, ông chống “chủ nghĩa cộng đồng”, dễ thấy hơn cả là “sự đồng đều hóa thương mại toàn cầu làm nghèo các nền văn hóa… Cần nhớ lại rằng cái chung không phải là cái giống nhau và điều đó về phương diện chính trị được diễn đạt bằng phát biểu: hội nhập không phải là đồng hóa…”.
Như thế, chúng ta thấy những cách đặt vấn đề của tác giả quả là rất đáng để suy ngẫm và trao đổi, để văn hóa thực sự là một động lực phát triển xã hội và giúp nâng cao đời sống tinh thần của con người.
3. Để có thể mở cửa ra thế giới từ một làng quê…
Như tôi được biết, có thể nói Trương Quang Đệ đã may mắn được sinh thành trong một môi trường - một “nguồn nuôi dưỡng” văn hóa có sức khơi dậy trong cậu bé một làng quê nghèo bên sông Thạch Hãn ước vọng mở những cánh cửa bước ra cuộc đời rộng lớn. Đọc 5 cuốn sách thuộc dòng “tự sự” viết về cả trăm nhân vật với đủ thứ chuyện trên đời của Trương Quang Đệ đã xuất bản trong 5 năm qua, nhưng chưa thấy bài nào ông miêu tả kỹ càng về thân phụ mình. Có thể Trương Quang Đệ ngại sẽ có người nhắc khéo: “Cha hát con khen hay” mà! Nhưng may mắn là qua bài viết về ca sĩ Tân Nhân, trong khi Trương Quang Đệ “đi tìm nguồn cội” (và cả “gien” nữa) đã tạo nên tài danh cô gái làng Mai này, bạn đọc được biết đôi điều về thân phụ của Trương Quang Đệ - cậu ruột của Tân Nhân: Nhà giáo Trương Quang Phiên (dân làng quen gọi là ông Trợ Phiên), từng là Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến tỉnh Quảng Trị từ năm 1948.
“…Ông Trợ Phiên là một nhà giáo có năng khiếu sư phạm đặc biệt, Tiên Việt học hiệu của ông là một lò luyện người về kiến thức, chí hướng, kỹ năng nghệ thuật. Ngoài giờ học, học sinh tập luyện diễn kịch với đủ các loại hình: cải lương, hát bội, kịch nói. Học sinh còn tập diễn thuyết trong câu lạc bộ sinh hoạt hàng tháng và chơi thể thao những buổi chiều đẹp trời trên cái gò đồi lộng gió dọc sông. Dấu ấn của thầy Phiên sâu đậm đến nỗi học trò cũ của ông đến tuổi xưa nay hiếm vẫn còn nhớ và có thể đọc thuộc vanh vách những bài toán, lịch sử, khoa học, thơ văn Pháp, thơ Nôm, thơ chữ Hán được ông Trợ Phiên giảng dạy từ những năm ba mươi của thế kỷ trước. Thật khó hình dung là những năm tháng xa xưa đó, ông Trợ Phiên đã có một thư viện đầy đủ các loại sách, kể cả những sách cấm. Ông còn đặt mua đủ các loại báo xuất bản ở Hà Nội, Sài Gòn và Huế. Chính phòng sách ấy, cả sách công khai lẫn sách cấm (Đề Thám, Cao Thắng, Bãi Sậy…) đã góp phần tạo nên nhân cách của ca sĩ Tân Nhân…”. (Trích từ sách Bâng khuâng cảm xúc về thời cuộc I).
Tất nhiên là có thể viết thêm, chính nhờ cái lò “luyện người” thông thoáng đặc biệt này với rất nhiều “cánh cửa” được mở ra thế giới ở một làng quê nhỏ, ngay giữa thời đoạn đất nước còn là thuộc địa mà chúng ta có Trương Quang Đệ hôm nay. Trong lúc trò chuyện với tôi lần mới nhất tại căn phòng yên tĩnh bên sông An Cựu khi Trương Quang Đệ ra thăm lại Huế, Thầy cho biết chính nhà thơ Lương An - một người cũng gắn bó với Huế lâu dài như ông và từng là một vị lãnh đạo chủ chốt của Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên đã không ít lần nhắc nhở ông “không được bỏ quên mà nên ghi chép lại cho giới trẻ được biết hành động của các vị tiền bối như thế nào…”. (Trích từ sách Đối thoại giữa các thế hệ). Nhờ đó, tuy chưa có được chân dung toàn vẹn về ông Trợ Phiên - một nhân vật đặc biệt, có thể nói là thuộc lớp lão thành nhưng ở “góc khuất” của lịch sử vì chưa mấy người biết, qua vài bài viết ngắn của Trương Quang Đệ, chúng ta đã được “gặp” vị tiền bối “có những việc làm không giống ai” mà nhà thơ Lương An đã nhắc Trương Quang Đệ “không được bỏ quên.” Trong cuốn Bâng khuâng cảm xúc về thời cuộc II xuất bản cuối năm 2023, Thầy đã cho in bài “Kể chuyện ngày xưa”, cho chúng ta biết một sự kiện “có một không hai” không chỉ ở Quảng Trị. Đầu năm 1947, khi mặt trận vỡ, Pháp từ Huế tiến ra Đông Hà, tàu chiến chuẩn bị đổ quân vào Cửa Việt. Câu chuyện tác giả nghe nhà thơ Lương An kể lại. (Thời đầu chống Pháp, nhà thơ Lương An là Trưởng văn phòng Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Trị). Có một công việc cấp bách phải giải quyết là số phận gần 300 phạm nhân đang bị giam trong nhà lao. Trong khi không ít người lo lắng nếu số phạm nhân này rơi vào tay giặc thì rất nguy hiểm, nên “Cần phải làm gọn thôi!” thì ông Phiên (lúc đó là Phó Chủ tịch tỉnh) “cả gan” đề nghị phóng thích, “nếu ai trong bọn họ làm gì phản dân hại nước thì các anh đem tôi ra xử tội”. Ông dám nói thế, vì đã hỏi kỹ cán bộ phụ trách trại giam, biết số phạm nhân không có tội gì rõ ràng - ví như chỉ là lái xe, đầu bếp… trong các gia đình có quan hệ với Pháp, lúc chúng còn chiếm Quảng Trị. Thật may mắn là Chủ tịch tỉnh lúc đó, đồng tình với ý kiến của ông Phiên nên đã cứu được không ít sinh mạng. Quả nhiên, sau khi được thả, có một số người “tình nguyện ở lại nhận nhiệm vụ giúp cơ quan tỉnh di chuyển đồ đạc. Ông Phiên chọn 10 người nguyên là dân đào vàng vào việc khuân vác đồ đạc và chọn 3 người dân tìm trầm vào việc tìm kiếm các con đường rừng thuận tiện.”
Sự kiện “mở cửa” - mở nhà tù thoạt nghe như “thiếu cảnh giác” này gợi chúng ta nghĩ đến chính sách đại đoàn kết dân tộc, thể hiện tính nhân văn cao đẹp của Chính phủ cụ Hồ thời kỳ đầu sau Cách mạng Tháng 8 qua việc mời cựu hoàng Bảo Đại làm “Cố vấn” Chính phủ và trợ cấp cho hoàng gia thời gian họ còn ở lại Huế.
Cũng trong cuốn sách đã dẫn, còn câu chuyện cũng thuộc loại hiếm có xảy ra năm 1948, khi ông Phiên vừa nhận chức Chủ tịch tỉnh vài tháng. Lúc đó Trương Quang Đệ còn ở với ông tại chiến khu Ba Lòng nên biết rõ sự việc. Một ngày, đội cảnh vệ dẫn “6 cụ già, dáng thanh cao, nho nhã, ăn bận theo lối cổ” đến gặp Chủ tịch. Đó là 6 vị quan to triều Nguyễn, những Thượng thư, Tham tri, Tuần vũ, Án sát không chịu theo giặc, sống ở quê cũng không yên, nghe tiếng Chủ tịch là người khoan dung độ lượng, nên tìm đến nương náu vùng kháng chiến và sẵn sàng nhận công việc được giao phó. Trong điều kiện những ngày đầu kháng chiến ở chiến khu rất khó khăn, ông Phiên đã sắp xếp “để các cụ ở tạm nhà khách của tỉnh, cũng là một túp lều tranh khuất trong một lùm cây rậm… Những ngày sau đó ông Phiên và toàn bộ nhân sự của Ủy ban tỉnh dốc sức tìm mọi cách đảm bảo cho các vị khách đặc biệt này một cuộc sống không đến nỗi quá gian khổ…”. Các cụ rất phấn khởi được giao một công việc thích hợp là phân loại, đánh giá tài liệu chữ Hán, chữ Pháp mà tỉnh đang lưu giữ. Nhưng “Cuộc sống vui vẻ trôi chảy được khoảng hai tuần thì các cụ nhất loạt bị bệnh sốt rét quật nga”̃. Khi người y sĩ giàu kinh nghiệm với ít thuốc hiếm hoi không cứu vãn được tình thế, sau một đêm gần như thức trắng đắn đo, suy tính, ông Phiên đành phải viết lá thư gửi “Ngài Nguyễn Hoài” - cựu Đốc học Quảng Trị, hiện là Tỉnh trưởng Quảng Trị (đã bị Pháp tái chiếm) mà ông từng biết là một người tốt, đề nghị ông ta giúp đỡ để Ủy ban kháng chiến có thể chuyển các cụ vào điều trị tại bệnh viện tỉnh trong vùng bị tạm chiếm. Ba hôm sau, theo thỏa thuận hai bên, “hai chiếc thuyền chở các vị thượng quan cũ xuôi dòng từ Ba Lòng về thị xã. Đi theo các cụ có 4 vệ sĩ và 1 y tá […]. Dân chúng quanh bến tò mò muốn biết các cụ là ai mà bên này bên kia rầm rộ đưa đón như vậy…”. Có thể nói, đây là một cảnh hiếm có và chưa mấy người biết. Bà con càng ngạc nhiên khi “đến bữa ăn trưa, các cụ từ chối mâm cơm thịnh soạn toàn món ngon của quân ông Hoài chuẩn bị. Các cụ tỉnh bơ ngồi quanh một chiếc bàn nhỏ, lấy mo cơm nắm muối vừng mang sẵn từ chiến khu về và ung dung ăn một cách ngon lành…”.
Trong cuốn sách đã dẫn còn có câu chuyện về “Bài thơ khóc con” cũng của ông Trương Quang Phiên - lúc đó, năm 1947, ông Phiên đang ở chiến khu, không biết con gái ông đau ốm và qua đời khi mới 16 tuổi; nhưng buổi trưa, sau ngày chị mất, bỗng có một con bướm lượn mãi quanh ông… Vì thế mà bài thơ được khắc vào bia dựng trước mộ chị có câu: “Khí thiêng hồn bướm lượn quanh người”. Tác giả nhắc lại bài thơ của thân phụ, “một đệ tử trung kiên của chủ nghĩa duy vật” để bàn về vấn đề khoa học tâm linh đang được giới nghiên cứu vật lý hiện đại quan tâm: mối liên hệ giữa vật chất và ý thức…
Có một người cha thuộc lớp “lão thành” lại là “đệ tử trung kiên của chủ nghĩa duy vật” mà thông thoáng như thế, hôm nay, chúng ta và các thế hệ học sinh, sinh viên trên nhiều vùng đất - cả trong và ngoài nước, mới có Trương Quang Đệ, một người Thầy mẫu mực, một nhà khoa học không học hàm, học vị, cũng là một nhà-văn-không-thẻ được mọi người kính trọng và yêu mến. Con người đó đã được TS. Trần Đình Hằng “đúc kết” trong “Lời giới thiệu” cuốn Đối thoại giữa các thế hệ như sau:
“…Có thể tư chất và khí chất được kế thừa từ gia phong - gia giáo được tiếp biến uyển chuyển giữa cựu học và tân học đã giúp Thầy tự tin, nhiệt huyết xâm nhập những khoảng trống từ quê lên tỉnh, ra Bắc, qua châu Phi, tới nước Pháp rồi trở về, gắn bó với môi trường đại học từ Hà Nội, vào Huế rồi Thành phố Hồ Chí Minh. Cốt cách ấy, phong thái ấy vừa lịch lãm khiêm nhường nhưng cũng rất cương cường… Thầy luôn đầy nghị lực, đi vào những khoảng trống để kết nối, giảm thiểu khoảng cách, theo chiều đồng đại giữa những con người cá nhân và con người xã hội, những lằn ranh vùng miền và cả quốc gia, dân tộc, tôn giáo…”.
Viết thế về một con người kể cũng đã… hết chữ! Vậy mà vẫn chưa đủ. Ông thầy dạy toán, soạn sách giáo khoa tiếng Pháp, nghiên cứu về văn học nghệ thuật rất nghiêm túc với vốn kiến thức Đông-Tây-Kim-Cổ uyên bác té cũng rất chi là lãng mạn. Tôi rất ngạc nhiên khi đọc chùm bài kiểu “nhàn đàm” trong cuốn Bâng khuâng cảm xúc về thời cuộc, Trương Quang Đệ viết về các ca khúc “ngày xưa” mà tôi cũng yêu thích, đến mức tôi đã nhẩm hát khi đưa mắt theo từng dòng chữ. “Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối/ Rừng chiều mờ sương ánh trăng mờ chiếu…”. Con người lãng mạn mê văn hóa Pháp ấy còn thể hiện ý thức công dân rất có bản lĩnh trong cách lựa chọn cuộc đời khi trả lời câu hỏi của cô giáo trẻ Hoàng Liên rằng: Vì sao ban đầu ông là một thầy giáo dạy Toán, lại chuyển sang dạy tiếng Pháp. Trương Quang Đệ đã trả lời: “À, thời ông là sinh viên thì cứ suy nghĩ: Cách đóng góp tốt nhất cho đất nước là cái gì?... Sau đó, ông đi châu Phi dạy Toán, nhưng mà bằng tiếng Pháp. Thế rồi đến khi về, Bộ Giáo dục chuyển đổi qua tiếng Pháp. Vì sao? Vì ông có tiếng Pháp hiện đại […] Không có ai tin là ông đi dạy được tiếng Pháp. Thêm nữa là người ta ngại ngoại ngữ lắm… Lúc đó ông nghĩ thế này. Mình mà làm bên Toán, thì đóng góp cho đất nước ít thôi; nhưng nếu mình nhảy sang Ngoại ngữ sẽ đóng góp rất lớn. Vì sao? Vì lúc ấy đất nước đang còn đóng cửa, khép kín, chỉ có ngoại ngữ mới mở cửa được…”. Thầy còn kể một số chi tiết… rất vui thời “đóng cửa”, như hồi đó, do cán bộ ta không có ngoại ngữ, nên có lần Thầy dạy tiếng Anh phải đóng vai… đại tá để gặp phái đoàn Mỹ!
Đất nước ta đã sang trang sử mới - mở cửa làm bạn với cả thế giới, nhưng ý thức chọn việc làm vì lợi ích của đất nước thì đó là một phẩm chất cao quý đối với mọi thời đại. Nhân nhắc “xuất xứ” Trương Quang Đệ trở thành chuyên gia Pháp ngữ, mặc dù biết Thầy chẳng ham kể thành tích, nhưng chúng ta cũng nên biết… công Thầy trong sự kiện “mở cửa” đặc biệt quan trọng của Huế diễn ra liên tục hơn ba chục năm qua. Mở đầu cuộc đối thoại, ông Nguyễn Huy Thái, nguyên Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ Thừa Thiên Huế hỏi: “Festival Huế khởi đầu từ năm 1993, thông qua sự kết nối của Khoa Ngoại ngữ Trường Đại học Sư phạm Huế với sự hỗ trợ rất lớn của tổ chức Codev Việt - Pháp…”. Nhờ thế mà Trương Quang Đệ có dịp cho biết “Khởi đầu sự việc liên quan đến Festival Huế là một đêm biểu diễn văn nghệ do Công đoàn Trường phối hợp với Khoa Ngoại ngữ tổ chức…”. Do gắn bó với Khoa Ngoại ngữ, không chỉ một Hội Codev mà còn “Hội những người yêu Huế” và “Hội những người nói tiếng Pháp ở Huế” cùng đến tham dự… “Các thành viên này lên sân khấu biểu diễn kịch câm, hoạt cảnh, ngâm thơ, hát đơn ca, song ca, tam ca…”. (Trích từ Đối thoại giữa các thế hệ).
Vậy đó! Có thể gọi đó là việc khởi đầu mở ra Festival Huế… Nhắc đến “Hội những người yêu Huế” tại Pháp, lại nhớ đến anh Võ Quang Yến, kỹ sư Lê Huy Cận, Tổng thư ký Hội, những cộng tác viên nhiệt thành và vô tư của “Sông Hương” tại Paris nhiều năm.
4. Từ một người Thầy, nghĩ rộng ra văn hóa Huế xưa - nay
Như đã viết ở trên, Trương Quang Đệ là một người không màng chức vị, danh lợi. Khi Bộ Giáo dục chọn cử Thầy qua châu Phi, thoạt đầu Thầy từ chối, viện cớ trình độ toán và tiếng Pháp của mình còn non; đi châu Phi về, năm 1977, theo đề nghị “kiên quyết” của Hiệu trưởng - GS. Nguyễn Văn Hạnh, Bộ cử Thầy vào làm Trưởng Khoa Ngoại ngữ Đại học Sư phạm Huế, thoạt đầu Thầy cũng từ chối vì ngại các Trường Đại học miền Nam vốn có một đội ngũ giáo sư thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp. Thế mà… trong cuốn Đối thoại giữa các thế hệ, rất nhiều thầy giáo từng công tác tại Đại học Huế, đã không tiếc lời ca ngợi Trương Quang Đệ.
Vậy thì tôi còn “dài dòng” về Trương Quang Đệ làm chi? Vì Thầy là một nhân chứng sinh động về lối sống biết mở cửa nhìn và học hỏi thiên hạ, nhất định sẽ mang lại những giá trị lớn mà Huế đã thực hiện ngày càng hiệu quả trong nửa thế kỷ vừa qua. Trương Quang Đệ cũng là một bằng chứng, Huế xứng đáng là trung tâm văn hóa của cả nước - một trung tâm văn hóa thì phải luôn là nơi hội tụ nhân tài thực sự, không câu nệ quê quán và cả bằng cấp. Danh sách những tên tuổi được ghi trong sử sách có xuất xứ từ các ngôi trường danh tiếng Quốc Tử Giám, Quốc Học, Đồng Khánh không thể kể hết. Thời Huế còn là Kinh đô đã vậy; thời nay càng phải như thế. Như họa sĩ tài danh Lê Bá Đảng quê Quảng Trị, nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị tuy sinh tại Thủy Bằng, nhưng quê nội ở Đức Thọ - Hà Tĩnh (thân phụ của bà là cụ Phùng Duy Cần, từng làm quan tại triều đình Huế) đã chọn Huế để gửi gắm di sản nghệ thuật của mình và Huế đã dành hai biệt thự kiến trúc Pháp bên sông Hương trưng bày tác phẩm của hai người.
Huế - Văn hóa Huế là như thế. Chính vì thế, không phải ngẫu nhiên, sau Cách mạng Tháng 8, ngày 18/9/1945, Huế là địa phương đầu tiên trong cả nước tổ chức thành lập Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên hội tụ 50 nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ - tiền thân của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật thành phố Huế hiện nay. Liên đoàn đã cử nhà văn Hoài Thanh làm Chủ tịch. Cuối năm 1945, khi nhà văn Hoài Thanh chuyển ra Hà Nội công tác, Liên đoàn đã họp đại hội cử nhà phê bình Hải Triều làm Chủ tịch. Kể cũng là điều thú vị nếu chúng ta nhớ lại cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh” (1935 - 1939), một cuộc tranh luận chạm đến những vấn đề cơ bản của lý luận văn học mà hai “chủ soái” chính là Hoài Thanh và Hải Triều. Một thời gian dài, không ít người cho rằng hai vị là hai “đối thủ” không ai chịu nhường ai, nhưng thực ra, đây chỉ là cuộc đối thoại, mỗi bên cố ý nhấn mạnh một phẩm tính của tác phẩm văn nghệ, cũng có lúc lời lẽ căng thẳng, không khác gì các cuộc bút chiến gần đây; sau này, các tư liệu cũ đã chứng tỏ Hải Triều và Hoài Thanh cùng có nhiều điểm đồng nhất với nhau. Chính Hoài Thanh, trên báo Tràng An, 1/10/1935 đã phát biểu: “Nói cho cùng, nghệ thuật nào mà chẳng vị nhân sinh, không vì cái sinh hoạt vật chất thì cũng vì cái sinh hoạt tinh thần của người ta”. Còn Hải Triều, trên báo Dân Tiến ngày 27/10/1938, đã viết: “Bao giờ và ở chỗ nào cũng thế, nhà văn cần phải có tự do mới có thể sáng tạo được những công trình bất hủ. Gạch ra một con đường buộc họ phải theo là một sự điên cuồng.” Sau đó, trên Tạp chí Tao Đàn ngày 16/3/1939, khi nói về các tiểu thuyết “luận đề” mà tác giả “phải dùng đến phương pháp truyền giáo hay ra lệnh” ông viết: “… những tiểu thuyết luận đề (romans à thèse), những tiểu thuyết luân lý bao giờ cũng có vẻ nặng nề, sống sượng, nghèo nàn… đã bỏ mất phương diện nghệ thuật đi nhiều lắm...”.
Nhắc lại cuộc đối thoại mở ra từ hai vị Chủ tịch của đội ngũ văn nghệ sĩ Thừa Thiên 80 năm trước để không quên những bước trưởng thành của phong trào văn nghệ Huế những năm vừa qua đã ngày càng thoát ra sự bó buộc phải theo “một con đường” mà Hải Triều đã cảnh báo từ hơn 80 năm trước! Nhờ thế mà sau này, bên cạnh các họa sĩ Vĩnh Phối, Trương Bé khẳng định tên tuổi với tranh trừu tượng, Bửu Chỉ và Đinh Cường vẫn được giới mỹ thuật trân trọng. Trong văn học có những gương mặt tiêu biểu như Tố Hữu, Thanh Hải, Ngô Kha, Trần Vàng Sao; Hồ Thế Hà đi sâu nghiên cứu “Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên” thì các tập nghiên cứu về nữ quyền luận của Trần Huyền Sâm, về văn chương huyền ảo của nhà văn đoạt giải Nobel G. Mac-két của Phan Tuấn Anh, về nhà văn đoạt giải Nobel Mạc Ngôn và văn hóa sinh thái của Nguyễn Thị Tịnh Thy được giới phê bình trong nước chú ý. Tiếp nối “Cây truyện ngắn” Hồng Nhu được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, Giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố đô hạng A, lại có “cây bút trẻ” Lê Minh Phong cũng có tập truyện ngắn với phong cách khác hẳn, đạt Giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố đô hạng A.
Văn hóa - văn học nghệ thuật đa chiều, mở ra nhiều “cánh cửa” là thế! Nhân bài viết nói đến “mở cửa”, tôi xin điểm qua một số ít tên tuổi và tác phẩm để làm chứng, chứ trong dịp Tổng kết thành tựu 50 năm (1975 - 2025) Văn học nghệ thuật thành phố Huế đã đề cập khá đầy đủ rồi. Cho dù vậy, nếu có điều kiện vẫn rất cần đối thoại với tinh thần cởi mở, tự do như Thầy Trương Quang Đệ và các trí thức tên tuổi đã thể hiện trong Đối thoại giữa các thế hệ mà Nxb. Thuận Hóa vừa in. Từ đó, chúng ta không chỉ hiểu sâu sắc hơn, đầy đủ hơn các giá trị mới, vẻ đẹp mới của văn hóa - văn nghệ Huế chưa được khai thác hết mà còn có thể giúp hoàn thiện hơn những dự tính cho tương lai.
N.K.P
(TCSH58SDB/09-2025)