Lê Phổ sinh tại Hà Ðông trong gia đình thế tộc, cha là kinh lược xứ Bắc kỳ Lê Hoan. Tuổi thơ của ông không hạnh phúc, khi lên ba thì mồ côi mẹ, lên tám thì mồ côi cha. Sống với chị dâu và anh trai, ông luôn phải chịu trách nhiệm về mọi rắc rối do những đứa cháu gây ra. Bà Vaux cho biết: “Ông không kể với con cái về tuổi thơ của mình, ông trầm lặng và sống nội tâm. Ông không nhớ gì về cha mình ngoại trừ việc biết cha mình hút thuốc phiện”.
Có năng khiếu hội hoạ từ nhỏ, nhưng đến năm 16 tuổi ông mới có cơ hội thể hiện khả năng và đam mê khi tham gia một trường hoạ ở Hà Nội. Năm 1925 là mốc quan trọng trong đời ông khi gặp hoạ sĩ, giáo sư người Pháp Victor Tardieu: Lê Phổ là một trong 10 sinh viên ưu tú khoá đầu tiên của trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Ông được chính giáo sư hiệu trưởng Tardieu và giáo sư Joseph Inguimberty trực tiếp hướng dẫn. Với phương châm bảo tồn tính dân tộc trong giảng dạy, giáo sư Tardieu khuyến khích học trò vẽ tranh bằng chất liệu truyền thống. Bà Vaux nói: “Tardieu giống như cha tinh thần của Lê Phổ. Ông ngưỡng mộ và rất gần gũi với Tardieu. Tardieu đã đặt nền móng cho những thành công trong hội hoạ của ông”.
Năm 1928, Lê Phổ có tranh triển lãm lần đầu tiên tại Hà Nội cùng Vũ Cao Đàm và Mai Thứ. Sau khi tốt nghiệp, năm 1931, Lê Phổ phụ tá cho giáo sư Tardieu tham dự triển lãm đấu xảo thuộc địa tại Paris.
Nhận học bổng trường cao đẳng Mỹ thuật Paris năm 1932, ông đi khắp châu Âu, thăm các bảo tàng viện Bruges, Cologne và Florence, chiêm ngưỡng những tác phẩm hội hoạ thời Trung cổ và Phục hưng, tiếp xúc với những trường phái mới thời đó như lập thể, siêu thực, trừu tượng... Cuối cùng, ông tìm ra được những nét trùng hợp giữa hội hoạ cổ điển Tây phương và hội hoạ cổ điển Trung Quốc. Ông cũng đến Ai Cập và tiếp cận nền nghệ thuật cổ nước này.
Năm 1933, Lê Phổ về Việt
giảng dạy tại trường Mỹ thuật Đông Dương, sau đó chàng trai 26 tuổi ấy sang Bắc Kinh tìm hiểu hội hoạ Tống, Minh. Ông thăm Huế, vẽ chân dung vua Bảo Đại, hoàng hậu Nam Phương và trang trí nội cung Hoàng thành Huế năm 1935.
Năm 1937, ông sang
Paris
với tư cách giám đốc nghệ thuật khu vực Đông Dương của Triển lãm quốc tế và ông quyết định ở lại Pháp. Bà Vaux kể: “Lê Phổ yêu Pháp, yêu bảo tàng Louvre và các tác phẩm trưng bày ở đó. Ông luôn thấy Pháp như nhà mình”. Ông còn có những người bạn tâm giao Vũ Cao Đàm, Mai Thứ định cư tại Pháp và cùng sáng tác tại đây.
Năm 1938, lần đầu tiên Lê Phổ trưng bày tranh tại
Paris
, từ đó tham dự nhiều cuộc triển lãm tranh trên thế giới. Ông kết hôn với bà Paulette Vaux – phóng viên báo Time và Life, năm 1947. Ông liên tiếp vẽ và cống hiến cho đời nhiều tác phẩm quý đến cuối đời. Tác phẩm của ông được trưng bày ở bảo tàng d’Art Moderne ở Paris – Pháp, bảo tàng Oklahoma – Mỹ và trong nhiều sưu tập nghệ thuật tư nhân, phần lớn ở Mỹ. Tranh của ông cũng được trưng bày tại các viện bảo tàng nghệ thuật Singapore, Nhật Bản và tất nhiên, Việt Nam.
Hai giai đoạn nghệ thuật
Waldemar George, nhà phê bình nghệ thuật Pháp, từng viết về nhiều hoạ sĩ hàng đầu của thế kỷ 20 như Pablo Picasso, Maurice Utrillo, Fernand Leger, Juan Gris, Marc Chagall, Amadeo Modigliani... Năm 1970, trong một cuốn sách viết về Lê Phổ, ông gọi hoạ sĩ Việt này là “Hoạ sĩ siêu phàm” (Divine Painter), khi mô tả tác phẩm Lê Phổ sau khi ông tiếp cận nền hội hoạ phương Tây. Waldemar chia hội hoạ Lê Phổ thành hai giai đoạn và cả hai giai đoạn đều có sự kết hợp các ảnh hưởng Đông và Tây mà ông tiếp thu từ trường học và từ các chuyến đi thực tế.
Giai đoạn đầu tiên là với tranh lụa từ năm 1934 – 1945, đậm nét cổ điển, phong cách Trung Quốc. Lê Phổ dùng sắc đậm, lạnh, màu nguyên chất. Những bức nổi tiếng là Thiếu phụ ngồi, Chim ngói, chịu ảnh hưởng hội hoạ đời Tống, với đường nét uyển chuyển, mềm mại. Không gian phẳng nét bút tinh vi, mong manh mà lạnh lùng, tạo không khí thuần khiết, ẩn chứa dung sắc xã hội Việt đầu thế kỷ. Những bức Mẹ con, Thiếu nữ và hoa lan, Hai chị em, Thiếu nữ và hoa hồng, Chải đầu... có chút thay đổi, khi ông dung hoà hội hoạ Trung Quốc và Ý. Nét bút thanh tao, phụ nữ trong tranh trang nghiêm, dáng dấp thiên thần nhưng buồn và huyền bí. Dù gặp gỡ hội hoạ Ấn tượng ngay từ khi vào trường mỹ thuật, nhưng mãi đến những năm 1940, Lê Phổ mới thực sự bỏ mọi mực thước của trường phái cổ điển để bước vào trường phái ấn tượng.
Giai đoạn thứ hai là thời kỳ lãng mạn với tranh sơn dầu từ những năm 1950. Waldemar nhận xét, giai đoạn này, phong cách của Lê Phổ có sự kết hợp hài hoà cái hồn Trung Hoa với trường phái ấn tượng. Nét bút của ông đầy tự tin với những hiểu biết chín muồi và thấm nhuần những tinh hoa nghệ thuật hội hoạ Đông -Tây. “Những con đường của châu Á và châu Âu giao thoa, nghệ thuật phương Đông và nghệ thuật phương Tây mở ra một cuộc đối thoại thân tình”, Waldemar viết.
Hình ảnh phụ nữ xuất hiện xuyên suốt trong tác phẩm của ông. Corinne de Menonville, trong cuốn Những tác phẩm hội hoạ Việt từ truyền thống đến hiện đại, nhận xét: “Ở giai đoạn đầu, người phụ nữ (trong tranh Lê Phổ) thường mỏng manh, e ấp, khuôn mặt trái xoan, có ánh sáng tạo hiệu ứng cho hồn tranh. Họ đều toát nên sự trang nhã, nhẹ nhàng, duyên dáng, lịch thiệp. Với tranh lụa, màu sắc nguyên chất và đậm sắc thái tạo nên khung cảnh lãng mạn. Giai đoạn tiếp theo, tranh sơn dầu vẫn đặt phụ nữ là tâm điểm, nhưng có thêm những cảm giác về tự do qua cử chỉ và màu sắc. Tranh lụa, người vẽ mất nhiều thời gian, cần sự tinh tế và tỉ mỉ, trong khi tranh sơn dầu, người nghệ sĩ được phép sáng tạo hơn với nhiều cử động và mức độ của màu sắc. Ảnh hưởng bởi trường phái ấn tượng, các tác phẩm thời gian này thể hiện sự tự do, tính hoa mỹ, hân hoan trong ánh sáng, nhịp nhàng trong nét cọ”. Còn Waldemar thì viết: “Một con thuyền lướt giữa những bông súng, những cô gái ẩn hiện hái trái cây trong vườn địa đàng, họ thật kiểu cách và được nhớ đến bởi sự duyên dáng, niềm vui của cuộc sống phát ra từ tất cả, trong tiết trời xuân vô tận, những thiếu nữ mảnh mai đang dùng bữa trưa trên một hiên nhà, những đĩa trái cây trên bàn phủ khăn, bình đựng đầy hoa dại: thế giới của Lê Phổ là một thiên đường trên trái đất”.
Trong suốt cuộc đời, Lê Phổ thường nói về những tình cảm sâu đậm của mình với quê hương, nơi ông sinh ra và nhiều thành viên trong gia đình ông đang sinh sống. Trong tranh Lê Phổ, những đặc trưng Việt , Á Đông được tái hiện qua hình ảnh những người phụ nữ hoà mình với tự nhiên và trẻ thơ. Một hình ảnh khác thường xuất hiện là những bông hoa. Waldemar nhận xét Lê Phổ thể hiện nỗi nhớ quê hương bằng hàng ngàn bông hoa. Bà Vaux tâm sự: “Ông yêu hoa, và hoa luôn xuất hiện trong tranh của ông ở cả hai giai đoạn trong tranh lụa và sơn dầu”. Bà từng chụp những tấm hình khi chồng đang say sưa vẽ hoa. Khi ông bị tai nạn năm 1991 phải nằm viện năm tháng, sau mỗi lần thăm ông về, bà lại đứng trước bức tranh hoa treo trong phòng khách mà khóc.
Năm 1964, ông ký hợp đồng với phòng tranh Wally Findlay ở Mỹ, đại diện giới thiệu, quảng bá tác phẩm của ông trên thị trường Mỹ và châu Âu cho đến cuối những năm 1980. Tranh của ông được đưa vào nhiều cuộc đấu giá, tạo động lực giúp ông sáng tác nhiều hơn. Khoảng mười năm qua, tranh của ông được giới thiệu tại Christie’s và Sotheby’s, và số người tìm kiếm sưu tầm tranh của ông cũng tăng lên. Thông thường, một nghệ sĩ tài năng thường được những nhà sưu tầm trong nước đánh giá cao và tìm kiếm. Tuy nhiên, số lượng người Việt mê và sưu tầm tranh Lê Phổ mới tập trung nhiều ở giới Việt kiều. Hiện những người tìm kiếm tác phẩm của ông là giới sưu tập và kinh doanh tác phẩm nghệ thuật châu Âu và Á như Anh, Mỹ, Úc, Singapore, Indonesia, Hong Kong. Tranh ông được định giá cao tại các cuộc bán đấu giá và được rao bán cùng tác phẩm của những tên tuổi lớn của châu Á, châu Âu. Giá các tác phẩm của ông ngày một tăng, như bức sơn dầu trên lụa Thiếu nữ hái hoa được bán với giá 339.797 USD tại
Hong Kong
vào năm trước.
Người sáng lập tạp chí Arts of Asia là một phụ nữ Việt Nam quê ở Long An, bà Tuyết Nguyệt. Sau khi học ngành báo chí ở Mỹ, bà về Sài Gòn làm việc cho tờ báo tiếng Anh đầu tiên ở miền Nam: The Times of Vietnam. Một năm sau bà kết hôn với một kiến trúc sư người Anh làm việc ở Hong Kong và chuyển tới đây sống cùng chồng. Ấp ủ ý tưởng về tờ Arts of Asia từ năm 1969, bà đã triển khai được một bản in thử và đến tháng 1.1971, số tạp chí đầu tiên chính thức ra đời với tiêu chí quảng bá văn hoá, nghệ thuật và lịch sử châu Á ra khắp thế giới. Arts of Asia được lưu hành rộng khắp tại hơn 80 quốc gia, là nguồn tư liệu chuẩn mực cho các gallery, bảo tàng và các nhà sưu tập nghệ thuật. Trong gần bốn thập niên, Arts of Asia đều đặn phát hành hai tháng một số ở hơn 80 quốc gia với số lượng lên đến 16.000 – 17.000 bản/số. Năm 2006, tờ South China Morning Post, nhật báo tiếng Anh lớn nhất của Hong Kong, đã gọi bà Tuyết Nguyệt là “người phụ nữ đầy uy lực của nền nghệ thuật châu Á”.
|
Theo SGTT |