Tạp chí Sông Hương -
Myanmar: Thỏi nam châm kỳ lạ
09:16 | 06/08/2010
Myanmar có thể không hấp dẫn những du khách thích tìm nơi vui chơi hay những kẻ đam mê mua sắm, nhưng nó níu chân du khách một cách rất riêng, nhẹ nhàng mà quyến luyến.
Myanmar: Thỏi nam châm kỳ lạ
Chèo thuyền trên hồ Inle
Lên thiên đường ở Bagan

Một trong những địa chỉ mà tới Myanmar, dân du lịch buộc phải đến, đó là Bagan, cố đô của đất nước Myanmar từ giữa thế kỷ 11 đến thế kỷ 13, nơi tập trung những kiệt tác kiến trúc Phật giáo đồ sộ, được so sánh với đền Angkor Wat của Campuchia và đền Borobodur của Indonesia

Mỗi ngày chỉ có một chuyến bay nội địa từ Yangoon đi Bagan và trên đường tới Bagan máy bay phải đáp sân bay Mandalay 15 phút để đón thêm khách. Bởi thế, có thể xem máy bay nội địa tại Myanmar như... xe bus biết bay vậy. Vé máy bay in đơn giản một mặt, mặt kia thì quảng cáo hình ảnh của một loại dầu gội đầu. Hành khách tự cân hành lí bằng chiếc cân giống như hồi bao cấp vẫn hay dùng khi xếp hàng mua gạo, loại có cần ngang điều chỉnh trục cân qua lại, nếu hành lí quá cước sẽ bị phạt rất nặng. Đói bụng, tôi đến một quầy tạp phẩm trong sân bay mua 2 chiếc bánh. Thấy tôi loay hoay vì không có đủ tiền lẻ thì cậu bé bán hàng nói thôi khỏi trả (tiền) cũng được. Hóa ra đôi khi đời sống đơn giản cũng làm người ta đơn giản thật thà đến vậy!

Đi máy bay ở đây không bao giờ hết lạ. Để tiết kiệm, chỉ đến khi khách lên đầy đủ, chuẩn bị cất cánh, nhân viên mới mở máy lạnh riu riu, vì vậy trên suốt chuyến bay hành khách vẫn phải cầm tờ báo để phe phẩy. Nhưng tới Bagan rồi, bạn sẽ thấy cái giá (vất vả) mình phải trả khi tới đây hoàn toàn xứng đáng!

Về nhà nghỉ, tôi thuê một chiếc xe đạp giá 2 USD, hơi đắt nếu so với giá nhà nghỉ (chỉ từ 5 đến 7 USD), nhưng xe đạp là phương tiện thú vị nhất. Bagan chỉ có hai con đường chính trải nhựa, còn lại đều là đường đất đỏ ngoằn ngoèo dẫn đến những thôn ấp và các đền chùa. Myanma có đến 90 % dân số theo đạo Phật, người dân hiền lành dễ mến. Là thành phố du lịch nổi tiếng nhưng ở Bagan không hề có cảnh ăn xin hay đeo bám du khách bán quà lưu niệm. Bạn có thể nghe rõ tiếng chim hót trong khu vườn ở khách sạn, thấy nụ cười hồn nhiên thơ ngây của trẻ con đi bộ đến trường, ngắm những chiếc xe đạp chầm chậm trên đường đất đỏ hai bên tán lá xanh rì... Ở Bangan, tự dưng thấy mọi chuyện làm mình khó chịu như mất điện, không internet, không “roaming” điện thoại.v.v... trở thành vô nghĩa, khi lang thang trên những con đường vắng vẻ, khi ngắm bụi lãng đãng sau chiếc xe bò chở rơm rạ, hay ngồi ngắm hoàng hôn từ đỉnh tháp Bangan, ánh vàng nhuộm rực những ngôi chùa u tịch 2.500 năm tuổi, khiến tất cả nhòa đi không còn đường chân trời, đưa mình như chạm đến những khoảnh khắc thiên đường. Cảm giác ấy ở Sài Gòn có tiền bạn có mua nổi không?

Và lững lờ trôi ở hồ Inle

Sau Bangan, hồ Inle thường được chọn là điểm dừng chân cuối cùng trong chuyến hành trình dọc ngang Myanmar. Nằm lọt thỏm giữa đồi Shan nơi có rất nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, hồ Inle rộng chừng 116km2 và nằm ở độ cao 880m.

Tôi đến hồ Inle sau chuyến bay sớm trong một buổi sáng mà Bagan tưởng chừng không thể nóng hơn được nữa. Cái nóng tháng Năm ở Burma kỳ lạ, len lỏi vào trong từng lỗ chân lông rồi như bùng lên, thiêu đốt từ bên trong. Những người bạn tôi gặp trên đường đến Inle đều tất thảy mong chờ những cơn gió, mong chờ cái nóng sẽ đi vắng, sẽ tan vào không khí mát mẻ ở vùng sông nước.

Máy bay đáp ở sân bay Ho Hin cách Nyaung Shwe, thị trấn trung tâm của Inle một tiếng đồng hồ đi xe. Sau một hồi đắn đo, tôi quyết định chọn một phòng đơn ở Little Inn Guest house với giá 5 USD đã bao gồm ăn sáng. Anh chủ nhà trọ hiếu khách với giọng cười vang to và ấm áp nhiệt tình chỉ dẫn cho chúng tôi những thông tin cần thiết, những địa điểm cần ghé thăm. Anh có một cô em gái, không nói được tiếng Anh và rất e thẹn, luôn ép mình sau cánh cửa nhìn khách ra vào và tủm tỉm cười. Khi tôi đòi được bôi thanaka (thứ bột làm từ thân cây mài ra, được các thiếu nữ Burma bôi lên mặt, vừa để làm đẹp, vừa chống nắng), cô chả nói năng gì, lặng lẽ bỏ vào buồng rồi lại xuất hiện trở lại nơi ngưỡng cửa, ra hiệu bảo tôi vào trong và thoa lên mặt tôi những vòng tròn thanaka mát lạnh, rồi lại chỉ tủm tỉm cười.

Sau khi tắm rửa, không cần nghỉ ngơi, chúng tôi ngay lập tức lên đường khám phá Inle. Nước hồ Inle trong như gương, nhìn thấy cả những cụm rong xanh dày đặc dưới mặt nước. Càng đi sâu, càng thấy nhiều thuyền độc mộc và những ngư dân hồ Inle với kiểu chèo thuyền bằng một chân trong khi hai tay thoăn thoắt gỡ lưới, buông lưới. Ông lái thuyền đưa chúng tôi vào sâu trong những ngôi làng nổi của dân hồ Inle, ghé ngang một gia đình làm nghề dệt lụa. Dân hồ Inle dệt lụa bằng một chất liệu cực kỳ độc đáo là tơ sen! Trước cửa nhà có rất nhiều người phụ nữ lớn tuổi ngồi bẻ thân sen làm đôi và chuốt lấy những sợi tơ mỏng manh để dệt lụa. Tất cả đều làm bằng tay và cực kỳ tỉ mỉ. Sau một hồi quan sát, chúng tôi ra trước cửa nhà ngồi nghỉ ngơi, ngay lập tức hai vợ chồng chủ nhà mang trà và bánh kẹo ra mời. Người Burma rất thích uống trà, có lẽ đây là thói quen từ thời còn là thuộc địa của Anh. Ngoài trà, nghe đồn hồ Inle còn nổi tiếng về xì gà, vậy nên trên đường về, chúng tôi ghé vào một gia đình làm xì gà trên hồ. Bước vào nhà, tôi choáng váng bởi mùi thơm phức từ những mẹt xì gà và bàn tay thoăn thoắt quấn từng điếu xì gà nhỏ ngay dưới sàn nhà. Bà chủ nhà mời tôi một điếu rồi tự tay châm lửa cho mình, vừa hút bà vừa giảng giải cho tôi về xì gà Inle. Xì gà Inle chỉ to bằng điếu thuốc lá bình thường, là một hỗn hợp của thuốc lá, me, mật ong, chuối, rượu, muối, đường nâu cuốn trong lá thuốc lá trồng ở đỉnh núi gần đó. Khi hút có mùi thơm rất dễ chịu và vị ngọt đọng ở đầu lưỡi. Sau một hồi trò chuyện, chúng tôi lại được mời ra trước hiên nhà uống trà. Buổi chiều làm cho không khí trên hồ trở nên dịu mát, tôi ngồi ngắm những chiếc thuyền qua lại trên hồ và trò chuyện cùng vợ chồng chủ nhà và anh con trai nhút nhát, chỉ lén lút nhìn khách rồi đỏ mặt quay đi. Tôi cực kì yêu thích cái khoảnh khắc được ngồi ở đấy, lẫn vào trong những câu chuyện giản dị, lẫn vào những tiếng cười, lẫn vào vị trà thơm phức và lẫn vào trong làn khói xì gà hồ Inle ngọt ngào.

Ngoài tour đi thuyền trên hồ, khách đến Inle thường chọn tour trekking (đi bộ với người dẫn đường) đến các ngôi làng của người Shan hoặc ngôi làng Padaung của người dân tộc cổ dài nổi tiếng. Tuy nhiên, thời điểm này nhiệt độ ban ngày quá cao, anh chủ nhà trọ khuyên chúng tôi không nên chọn tour này, mà thay bằng tự khám phá bằng xe đạp. Sau hơn một tiếng đồng hồ vừa đạp, vừa đi bộ, vừa nghỉ, chúng tôi lạc vào một ngôi làng của các nhà sư. Trong làng có hai cái hang nằm sâu trong núi, được dùng làm nơi thờ Phật. Ở hang động đầu tiên, chúng tôi được sư thầy mời vào thăm quan và uống trà, nghỉ ngơi. Trong động có ba bức tượng Phật lớn được thờ cúng, vài thứ đồ dùng đơn sơ của sư thầy và căn bếp mộc mạc. Ngồi trong đấy chúng tôi chẳng muốn rời đi vì không khí trong động mát mẻ và yên tĩnh. Ở hang động thứ hai, thì một vị sư già sống ở căn nhà nhỏ bên sườn đồi, dẫn chúng tôi đi. Khác với hang thứ nhất, hang này tối đen như mực, chúng tôi phải cầm đèn dò dẫm từng bậc thang đá mát lạnh để đi sâu vào trong. Sau chuyến thăm hang, vị sư già mời chúng tôi về nhà ông uống trà. Vào nhà, ông lục tìm cái khăn trải bàn cũ kỹ rồi lúi húi sắp xếp tất thảy những gì ông có trong căn nhà đơn sơ của mình và bày hết lên bàn mời chúng tôi. Có những quả chuối và táo nhũn hết một góc mà tôi đồ rằng ông cất để dành chưa dám ăn. Có những miếng quẩy ông cẩn thận cất vào trong cái nồi nhỏ. Rồi ông pha trà và run rẩy rót vào những cái bát nhỏ cho chúng tôi. Ông tuyệt nhiên không một lời nào, chỉ liên tục mời chúng tôi đồ ăn thức uống rồi ngồi nhìn ra cửa, lặng yên. Chúng tôi cũng chẳng dám nói gì, chỉ giúp ông phân loại ra giữa một đống những gói nhỏ linh tinh đâu là cà phê, đâu là sữa, đâu là trà để bỏ vào từng hộp riêng. Và cứ thế, ngồi bên ông lặng lẽ mà buổi chiều của chúng tôi trôi qua xúc động vô cùng.

Không nhộn nhịp như Yangon, không đền đài như Bagan, hồ Inle níu chân du khách theo một cách rất riêng, nhẹ nhàng mà quyến luyến. Trên chuyến bay rời xa Myanmar, nhìn ngắm những dải đất nhỏ dần dưới cánh máy bay, tôi nghĩ phải nói làm sao, phải diễn tả làm sao cho các bạn của tôi về đất nước này? Về những con đường còm cõi, bụi mờ gập ghềnh xuyên dọc xuyên ngang đất nước, những con đường mà thi thoảng ghé mắt qua ô kính xe tôi chỉ thấy mép vực cách bánh xe một khoảng cách tí ti. Về những chiếc xe hơi cũ kĩ chạy long lên sòng sọc đến nỗi tôi không dám ngồi gần cửa sổ vì chỉ lo cửa sổ rơi ra, tôi cũng rơi ra nốt. Về tiếng kinh Phật vang dội giữa không gian lặng thinh Bagan trong buổi hoàng hôn, nhìn ngắm ánh ráng chiều quét vàng rực lên những ngôi đền cổ. Về tiếng móng ngựa gõ lọc cọc trên con đường nhỏ vào buổi sáng tinh sương yên ắng chở tôi đi đón mặt trời. Và trời ơi, làm sao để kể cho các bạn về những người dân Myanmar hiền hòa, tốt bụng, rộn ràng câu chào “Mingabalar”, xúng xính Longi kèm theo nụ cười “thanaka” tỏa nắng. Anh bạn tôi bảo, tả về Myanmar ư, đơn giản đó là những cảm xúc “không thể tả được thành lời”, muốn biết, bạn phải đến.

Theo Thanh Hải - Khánh Linh - TT&VH




Các bài mới
Các bài đã đăng