Lễ động quan lúc 10 giờ ngày 1-10-2011, sau đó hỏa táng tại nghĩa trang Chánh Phú Hòa, Bến Cát, Bình Dương.
Nhà thơ Chim Trắng tên thật là Hồ Văn Ba (theo họ mẹ) sinh năm 1938, quê Bến Tre. Ông tham gia hoạt động cách mạng từ phong trào “Bảo vệ hòa bình” của luật sư Nguyễn Hữu Thọ năm 1955, bút danh Chim Trắng cũng ra đời trong giai đoạn này. Ông từng bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam giữ hai lần ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Đầu năm 1961ông trốn ra khỏi nhà tù ở Sài Gòn, vào chiến khu, làm công tác thanh niên, làm báo, viết báo, làm thơ…
Các tác phẩm thơ của Chim Trắng đã xuất bản: Có đâu như ở miền Nam (in chung với Lê Anh Xuân, Viễn Phương, NXB Thanh Niên, 1968); Tên em rực rỡ vô cùng (NXB Văn nghệ giải phóng Hà Nội, 1971); Đồng bằng tình yêu (Hội văn nghệ giải phóng miền Nam Việt Nam, 1973); Một góc quê hương (NXB Văn nghệ giải phóng Hà Nội, 1974); Những ngả đường (NXB Văn nghệ, 1980); Dấu vết nhỏ nhoi (NXB Văn nghệ, 1984); Khi tình yêu lên tiếng (NXB Mũi Cà Mau, 1987); Có một mùa thu trong (NXB Văn nghệ, 1990); Thơ Chim Trắng - Cỏ gai (NXB Trẻ, 1998); Hát lời cỏ hát (NXB Hội Nhà Văn, 1999); Nhân có chim sẽ về (NXB Trẻ, 2006); Cỏ khóc dưới chân tôi (NXB Hội Nhà văn 2008)…
Nhà thơ Chim Trắng nguyên là Tổng biên tập Tuần báo Văn nghệ TP.HCM từ năm 1995- 2006. Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1981 cho tập thơ Những ngã đường.
Nói về nhà thơ Chim Trắng, nhà phê bình văn học Huỳnh Như Phương nhận xét "Quả đúng như vậy, dù là sáng tác trong giai đoạn nào, thơ Chim Trắng vẫn luôn luôn ấm áp một tình yêu đối với con người, đối với quê hương đất nước. Thơ anh chưa bao giờ cao giọng, càng không hề có chất ồn ào. Nhà thơ tự nhủ:: “Ngày nào còn làm thơ, chắc tôi cũng chỉ nói về tình yêu ấy với giọng điệu ấy” (báo SGGPsố 30-4-98).
Một số bài thơ của nhà thơ Chim Trắng
Nhân có chim sẻ về
Chim Sẻ ồn ào trước sân nhà Luân vũ bày tỏ đói và khát Vốc một nắm gạo...! Trắng sân...
Chỗ tôi ngồi trắng ngần bạch hồ điệp Dịu dàng hương đâu rồi? Một đóa nở há miệng chờ đợi Hoa đang khát tình! Hãy nán đợi Đêm sẽ về sương rót cho hoa!
Em chính là đóa bạch hồ điệp kia thôi Bung nở hết mình - khát vọng! Tôi chẳng là giọt sương, chỉ là hạt gạo Nhân có chim sẻ về Xin bày tỏ trước sân tôi.
*********
Gởi quê mình
Khi nghĩ về quê hương với cha mẹ sanh thành Tôi như dòng sông bên bồi bên lỡ Lúc đau đáu nhớ, khi không hề nhớ Như một kẻ ra đi quên mất đường về.
Bông so đũa và gió chướng Mẹ khóc một đời rau răm Đó là lúc tôi biết mình không lạc lối Lòng bồi thêm nỗi nhớ âm thầm
Giấy đã vàng khô, tím đã phai màu tím lợt Tôi vẫn tôi đây của thuở nào Ai bỏ ai đi ai còn giữ lại Biển rồi, tận đáy biển nông sâu
Gió chướng cho lòng bịn rịn Không chỉ riêng em không chỉ mẹ cha mình Máu cứ đỏ như chưa bao giờ đỏ vậy Chưa bao giờ tôi sạt lỡ một tình yêu
Gió chướng là gì ghê gớm vậy Cho tôi khóc cười thương nhớ một bờ kinh.
***************
Hương cau quê ngoại
Mẹ lấy chồng xa Lâu lâu mới dẫn con về quê ngoại Trưa bước vào nhà Đã thấy đầy sân hoa trắng rụng Hương cau thoang thoảng Thơm như là tuổi thơ.
Cau già, ngoại sấy Cau dầy ngoại ăn Hỏi cau trồng được bao năm Ngoại bảo cau có từ lâu lắm Từ thời có giặc Lang - sa Từ ngày ngoại mới về nhà này, làm dâu Thương ngoại nên thương luôn hàng cau Thương cả dây trầu ngoại tưới. Ngoại vun Thương con nước lớn đầy sông Trở hoa cau trắng xuôi dòng. Về đâu? Thương sao câu hát ngọt ngào Giữa mưa bỏm bẻm nhai trầu ngoại ru.
Bây giờ ngoại không còn nữa Nhưng hãy còn đây hàng cau trước cửa Dẫu những đêm pháo chiếc pháo bầy Làm gãy đi vài cây cau ngoại trồng ngày đó, Dẫu những ngày chất độc bom cay Đã ngắt đi những buồng cau còn non trái Những đứa con trai con gái (Cũng là con cháu ngoại thôi) Đã tưới máu tươi cho cau đứng mãi trên đời. Để ngày ngày Có những trái cau tầm vung cho cháu con ngoại bửa. Có những mo cau rơi Cho chúng con nhồi cơm ra trận Có nơi cho con chim làm tổ để Và câu hò thơm hương cau bay.
*************
Ở đất Phương Nam
Tặng Mỹ Hà, Nguyễn Trọng Nghĩa
Rượu sủi tăm Ở Đất Phương Nam tôi bắt đầu buồn Bắt đầu nối sợi dây buồn không nơi chôn cất vào một chốn không góc rễ không nguồn cội nào. Mộng du từ Trịnh Hoài Đức đến Lê Lợi vào ngồi một góc cũ Mai Hương (*) Em đối diện tôi, cười tím áo. Khoanh khói thuốc thành một vòng trắng số không trước cái vòng trắng của Duật (**) từ lâu lắm. Nhẹ nắm bàn tay năm ngón thon dài nắm phải đóa hồng nhung mọc từ chiếc lọ thuỷ tinh Tôi chảy máu!
Bây giờ con đường Lê Lợi không còn Kem-Cà phê nào mang tên Mai Hương. Bạch Đằng kem bây giờ không có ai tên Nhài ngồi đợi. Năm mươi năm khô khóc nói cho mềm là nửa thế kỷ. Bom và mìn lửa và khói – máu và nước mắt trung thành và phản trắc nói cho cùng là những vết thương. Đợi sao nổi! Nhưng có một chàng trai –già chợt nhìn rượu sủi tăm bắt đầu mộng du, mơ màng chút hương nếp Bắc, đến Mai Hương gọi một ly đen-nóng. Ông hâm lại mối tình đầu không nơi nương tựa của mình. Mỉm cười với mình.
(*) Mai Hương: Thập niên 50-60 đây là quán kem, cafe ở đường Lê Lợi - bây giờ lấy tên là Kem-Cafe Bạch Đằng.
(**) Bài thơ Vòng trắng của Phạm Tấn Duật trong kháng chiến chống Mỹ.
(Nguồn thivien.net)
|
Theo T.N.T - TTO
|