Tạp chí Sông Hương - Số 162 (tháng 8)
Thành phố xanh màu ngọc bích
10:07 | 29/08/2008
NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).
Thành phố xanh màu ngọc bích

Seattle không phải là thủ đô của Washington State , nhưng là thành phố lớn của Bang, và là thành phố tiêu biểu của vùng Pacific Northwest . Seattle lấy từ tên một tù trưởng da đỏ - Chief Sealth. Thành phố Seattle vừa tròn 150 tuổi, gần 2 triệu dân - kể cả vùng phụ cận. Là thành phố nhỏ nhưng không bé. Seattle có nhiều cái nhất. Tỉ dụ: Hãng máy bay Boeing to nhất, Công ty Microsoft lớn nhất, Công ty sản xuất xe tải hạng nặng Kenworth bự nhất, Bill Gates giàu nhất, nguồn nước uống tinh sạch nhất, dân tình dễ thương nhất... Và, mưa nhiều nhất - riêng điều nầy thì chỉ làm cho người Huế tha phương ở đây càng thêm nhớ Huế.
Trên đường từ phi trường Takoma về, anh Lâm chỉ khu rừng trước mặt bảo nơi đó là nhà mình. Tôi tưởng anh nói đùa ai ngờ thật. Khu phố anh ở ẩn mình trong một rừng cây. Toàn những cây tùng cao lớn dạt chừng cả trăm tuổi đời. Sau nầy còn đi thăm một số Tiểu bang khác, tôi thấy ở đâu cũng xanh. Tôi nghiệm rằng, nước Mỹ đang đạt đến trình độ văn minh rừng-rú-hóa-thành-thị. Anh Lâm là một luật sư. Ở Mỹ luật sư là nghề đầy quyền lực. Bởi thế đó là nghề lạm phát nặng nhất. Anh nói, “Trung bình cứ ba thằng Mỹ thì có một luật sư”. Anh nhấc điện thoại alô vài nơi, bạn bè tụ lại, đủ vầy một cuộc vui. Tha phương gặp bạn cũ, nồng nàn như cốc rượu ngon.
Hôm sau Hồ Quân đến sớm đưa tôi đi loanh quanh một vòng thăm trung tâm thành phố. Seattle mang dáng dấp một thành phố cao nguyên, nhưng lại có nhiều hồ, nhiều đảo, bờ biển. Do nét đặc thù nầy mà Seattle khác với nhiều thành phố hiện đại khác ở Mỹ: mượt mà hơn, thanh thoát và đẹp hơn. Hồ Quân có dáng lái xe đại chi bay bướm. Tôi quen chàng công tử nầy từ thuở cùng là sinh viên Đại học Huế. Đã bốn mươi năm qua, biết bao vật đổi sao dời mà chàng thì cốt cách vẫn thế. Vẫn ăn chơi lịch lãm, với bạn hết mình, với đời mê mệt, với người mênh mông. Trong túi không bao giờ có tiền lẻ đổ xăng cho đầy, nghe bạn tới vội xoay xở đổ đầy xăng để đưa bạn đi cùng trời cuối đất. Mấy thằng con trai Huế, đánh trăm trượng vẫn không chừa cái thói hào hoa.
Lỏng buông tay khấu, anh đưa tôi qua những con đường ngát xanh của Seattle . Anh cho tôi nghe cuốn băng Hồng Nhung hát về Hà nội. Cuốn băng nầy bên nhà tôi đã nghe nhiều lần, nhưng hôm nay sao mà da diết thế. Từng ca từ, từng giai điệu như rót vào lòng. “Ta còn em một màu xanh thời gian, một chiều phai tóc em bay, chợt nhòa chợt hiện... Chiều Hồ Tây lao xao hoài con sóng. Chợt hoàng hôn về tự bao giờ”. Một cảm giác mới mẻ trào dâng làm tôi nghẹn ngào. Nó vừa riêng vừa chung, vừa gần gũi vừa xa vắng về đất nước, con người, tình yêu và kỷ niệm. Hàng cây hai bên đường xôn xao trong gió sớm. Qua mỗi khúc quanh, cuối con đường bỗng lấp loáng mặt hồ làm tôi giật mình cứ tưởng mặt nước sông Hương. Tôi thầm cám ơn anh đã không lắm lời. Seattle ơi, chưa thành kỷ niệm mà đã thấy đẹp rồi.

Buổi chiều, Hồ Quân đưa tôi qua Alki ngắm hoàng hôn trên biển. Bên mình mặt trời nhô lên từ biển đông và khuất sau dãy núi phía tây. Ở đây mặt trời lặn xuống biển. Mặt trời khuất sau núi thì hoàng hôn nhiều màu sắc và đẹp. Mặt trời lặn xuống biển thì hoàng hôn mênh mông và buồn. Tôi thích ngắm hoàng hôn trên biển. Hôm đến Florida, chiều nào tôi cũng ra Clearwater ngắm hoàng hôn trên biển. Phía kia là đảo quốc . Tôi cố dõi tìm đâu là điểm mờ mờ xanh của đất nước bé nhỏ ấy. Các quan chức Nhà trắng luôn coi như cái gai muốn nhổ đi cho khuất mắt, còn thế giới thì hết lòng ngưỡng vọng. Trong thời đại mà chân lý là món hàng đổi bán, là hình tượng của một nhân cách “không thấy giàu mà ham, không vì nghèo mà đổi lòng, không trước bạo lực mà sợ”. Tôi mơ được đến thăm đất nước đó một lần.

Người Việt ở Seattle khoảng sáu bảy chục ngàn. Như bất cứ nơi nào có người Việt trên đất Mỹ, họ vừa bị ghét vừa được nể trọng. Ghét vì sang quá và ồn ào. Nể trọng vì thông minh, cần mẫn và thành đạt. Nền kinh tế Mỹ lớn, mạnh, đa dạng mà tiền lương lại cao, cho nên tùy khả năng mỗi người, nhất là trình độ tiếng Anh, ai cũng có công ăn việc làm, cũng kiếm được nhiều tiền. Họ có mặt trên nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế Mỹ.
Mỹ là một đất nước đa chủng. Khác với nhiều giống dân khác ở đây không thích làm việc; hễ có tiền, dù tiền trợ cấp, là sa vào thú vui rượu chè, hút xách, tội lỗi. Người Việt, quyết tâm làm ra thật nhiều tiền để sống ngon lành và đầu tư cho con em học hành. Thanh niên Việt ở Mỹ học rất giỏi. Cha ông họ thì đang làm thuê, nhưng đến thế hệ họ, không nghi ngờ gì nữa, họ sẽ dành được vị trí xứng đáng trong đời sống xã hội Mỹ. Còn như lúc đó, họ có nói được tiếng Việt không; có hiểu biết lịch sử, văn hóa dân tộc mình không thì lại là vấn đề khác.
Điều buồn lòng nhất là không ở đâu người Việt chịu đoàn kết tương trợ nhau. Ở Seattle có đến năm sáu chục hội người Việt. Họ không chấp nhận nhau và chống phá nhau tận cùng bằng số. Đối kháng, bất hợp tác là vũ khí trong hơn hai ngàn năm dân tộc ta sử dụng để chống tham vọng đồng hóa của ngoại bang. Nhưng rồi, lâu dần thứ vũ khí ấy trở thành tính cách người Việt, gây khó khăn cho nỗ lực kiến tạo hòa bình và xây dựng đất nước cường thịnh.
Thăm một số gia đình bạn bè thân quen mới thấy hết sức sống, khả năng thích nghi của người Việt ở nước ngoài. Bác sĩ Tùng là bạn đồng môn của tôi. Anh mới sang Mỹ từ 1995. Vợ anh là giai nhân tăm tiếng một thời của Huế. Hèn chi mấy o con gái của chị xinh đẹp như người mẫu. Ở Việt , chị là cô giáo cấp III. Sang dây, chị cùng các con tiếp tục học Đại học, tốt nghiệp và kiếm được việc làm. Trên tường, bàn thờ tổ tiên, mấy bức tranh Việt , kỷ vật Huế, cách bài trí...tất cả, chan chứa một màu Việt . Điều làm tôi xúc động nhất là ngay giữa phòng khách, chị trồng một chậu gừng lớn. Nhiều người nói với tôi, mơ ước được về Việt , sống thanh thản tuổi già và chết trên mảnh đất quê mình. Tôi quên hỏi chị Thủy Tiên, rằng khi trồng bụi gừng ấy là chị muốn ngầm dặn dò người chồng hào hiệp của chị, hay chỉ là lời nhắc nhở chính mình về một quê hương xa tít tắp tận chân mây cuối trời.
Gia đình anh Lâm đến Mỹ sớm hơn, từ năm 1975. Các con anh đã lớn, thành đạt, đều làm việc cho chính phủ. Cô con gái đầu tình nguyện về Việt dạy tiếng Anh 2 năm. Yêu và lấy chàng trai diện “gia đình cách mạng”. Hết hợp đồng, đôi uyên ương trở lại Mỹ. Ngôi nhà của họ sang trọng như nhà của tay triệu phú. Ở Mỹ, nhìn từ bên ngoài nhà nào cũng có vẻ như nhà triệu phú. Cũng vườn trước vườn sau, cỏ cây hoa lá, đầy đủ tiện nghi. Khác chăng chỉ là số tiền gởi trong ngân hàng.
Một anh bạn tâm sự: “Ưa thỉnh thoảng có vài thằng bạn Huế ghé chơi để nói một trận tiếng Huế cho sướng lỗ miệng”. Ở Huế, ai cũng cố ý nói thế nào cho tiếng Huế nhẹ hơn, ít mệ hơn, đỡ quê hơn. Sang đây, thì chỉ muốn nói sao cho đặc quánh giọng Huế mới sướng. Mạ mền, rứa chơ, răng ri, mô, nớ, tề...chao ôi, mặn mòi như một thẫu mắm cà. Nhiều người xa Huế gần trọn một đời mà giọng Huế vẫn cứ đặc Huế. Diệm My hay Kim Lan là một ví dụ. Tôi thừa nhận rằng, người Huế xa quê nói giọng Huế mới thiệt là Huế.

Sợ vợ chồng Định giận, tôi đến làm khách một đêm. Tôi được đón tiếp như mình là thủ tướng nước Anh. Định sang Mỹ năm 1990. Anh làm việc cho Hãng Boeing, chị và các cháu đều có công ăn việc làm. Hai đứa con đầu của anh chị - Hạnh và Phương là đệ tử cũ của tôi. Hồi ấy tôi cố tìm một cô gái ròng Huế để dạy võ cho. Tôi thấy mấy cô gái Huế dư cái dịu dàng mà thiếu cái dữ dội, dạ thì ngọt lắm mà không biết bạt tai cho đau. Thế là tôi nung nấu xây dựng một hình tượng mới về con gái Huế, vừa có cái tình lai láng của vầng trăng, vừa có cái khí sắc lạnh của lưỡi kiếm. Ngày Định đưa hai cháu đến bái sư nhập môn, nhìn Hạnh tôi chấm ngay. Hai cháu đều có năng khiếu về võ, nhưng cũng lại rất có năng khiếu về điền kinh. Tập được hơn một năm cháu Hạnh phải nghỉ. Cháu là vận động viên của đội tuyển điền kinh tỉnh, rồi đội tuyển quốc gia; nhiều lần tham gia các giải điền kinh quốc tế. Đã qua hơn 15 năm, nay gặp nhau đất khách quê người, thầy trò mừng mừng tủi tủi. Phương mua tặng thầy kiếm, côn, vũ khí đặc trưng của Karate. Hạnh khao thầy một chầu leo núi Rainier . Tôi thích núi. Ở Huế có Bạch Mã sơn là ngọn núi cao nhất miền Trung. Năm nào tôi cũng đưa đệ tử lên đó rèn luyện và tập luyện. Hạnh tinh tế còn nhớ ra điều ấy. Mount Rainier nằm về phía đông-nam Seattle , cao 4700m, vĩnh hằng tuyết phủ. Mount Rainier là biểu tượng của Washington State . Có người bảo nó còn hùng vĩ hơn cả Alpe. Tôi cố leo lên, leo lên, cho đến cái nơi du khách không được phép leo nữa. Cả một vũ trụ tuyết. Thế là tôi đã nhìn thấy tuyết, được đứng trên núi tuyết. Điều mà trước đây tôi chỉ thấy trong mơ. Lòng xiết bao bồi hồi, cảm khái. Tôi vốc tuyết vào hai bàn tay, tung lên, tung lên, y như thời còn bé nghịch cát ngoài bãi. Trên đầu thì nắng chang chang, dưới chân thì lạnh căm căm. Té ra trên những ngọn núi cao, cái nóng và cái lạnh có thể cùng nhau tồn tại.
Buổi chiều chúng tôi nghỉ chân bên một triền núi. Ở đây đã có sẵn các lò nướng, chỉ cần bỏ than vào và mồi lửa. Bãi cỏ xanh ngăn ngắt và sạch tinh tươm. Một bữa barbeque tuyệt vời, sau nầy mỗi lần nhớ lại vẫn còn xúc động bồi hồi. Hôm ấy tôi uống nhiều rượu. Tôi hiểu vì sao tôi uống nhiều rượu. Còn Định thì tôi không hiểu vì sao.
Chiếc Mercedes vun vút đưa chúng tôi hạ san. Đây là chiếc xe cô út của Định mua với giá 45 ngàn USD sau khi tốt nghiệp và kiếm được việc làm. Không biết bên mình, một sinh viên mới ra trường xin được việc làm, phải mất bao nhiêu lâu mới mua được chiếc xe để đi. Ý nghĩ ấy cứ đeo đẳng tôi suốt quãng đường về.

Hôm đi dự party của nhóm Kids First trên đảo Bainbridge Island , tôi gặp lại Jonie và Cathay . Năm ngoái hai bà đến Huế làm thủ tục nhận con nuôi. Cháu nhỏ được đặt tên Annie, chừng 2 tuổi. Trông bộ dạng hai bà đối với Annie, thì cháu nhỏ đúng là “con cầu tự” của họ. Tôi thầm nghĩ, giá như cháu xinh xẻo một chút thì hay biết mấy. Thử hình dung, 18 năm sau, một cô sinh viên dong dảy, xinh đẹp nói với người yêu của mình rằng tôi mang giòng máu Việt Nam, thì mình cũng được nở mày nở mặt theo. Đằng nầy Annie đen điu và xấu quá. Hình như người ta xin cháu từ một bản làng xa xôi nào đó. Cháu nhỏ không nhận ra khiếm khuyết trên khuôn mặt mình, hồn nhiên tung tăng đùa giỡn với nhóm bạn mắt xanh mũi lõ của cháu. Tôi cứ băn khoăn hoài không hiểu vì sao có nhiều gia đình người Mỹ chịu bao nhiêu vất vả xin về những đứa trẻ xấu xí hoặc tật nguyền để nuôi bồ cô suốt đời. Đó có phải là lòng nhân ái, hay là cục nợ đời, nói theo ngôn ngữ bên mình. Có điều, theo kinh nghiệm bản thân, tôi biết rằng họ yêu thương thật sự và chăm chút hết lòng.
Tiền thân của nhóm Kids First là Peace Trees, một tổ chức phi chính phủ, trồng cây hòa bình cho khắp thế giới. Năm 1996, Peace Trees trợ giúp tỉnh Quảng Trị phát quang và trồng hàng vạn cây xanh. Khi tiến hành trồng cây, họ gặp nhiều trẻ em què, cụt, là nạn nhân của bom mìn còn sót lại. Do vậy mà sau chương trình trồng cây, một số thành viên của Peace Trees, đứng đầu là ông Roger Ferrell thành lập nhóm Kids First, chủ yếu giúp giáo dục phòng chống bom mìn, xây dựng trung tâm phục hồi chức năng và dạy nghề, tặng quà cho trẻ em cô nhi, xây trường học, cấp học bổng cho trẻ em nghèo và tàn tật.
Biết tôi từ Việt sang, họ vui mừng đến bắt tay chào hỏi. Nhiều người trong số họ đã đến Việt , ít nhất cũng một lần. Hai tháng trên đất Mỹ, tôi đã gặp nhiều người Mỹ, họ đều có thiện cảm và tỏ ra kính trọng Việt . Một cựu chiến binh Mỹ nói với tôi, “Người Mỹ chưa bao giờ thất trận, trừ một lần. Người Mỹ đã thất trận ở Việt ”. Đó có thể là lời mỉa mai, nhưng nhìn vào mắt ông, tôi biết rằng ông nói thật. Một sự thật mà nhiều người Việt trên đất Mỹ không bao giờ chịu nói ra. Làm như thử chỉ cần nhắc tới không thôi đã là sự xúc phạm đối với họ. Người Mỹ mạnh mẽ và tự tin đến mức, họ nói về những lầm lỡ của họ một cách thật thoải mái.
Địa điểm buổi họp mặt là ngôi biệt thự của một thành viên trong nhóm Kids First. Ngôi biệt thự nằm bên bờ biển. Biển ở đây xanh màu xanh lạ lùng. Biển bên mình xanh màu xanh nước biển. Biển ở đây xanh màu ngọc bích. Tôi còn gặp màu xanh nầy một lần khi tôi đến đảo Corse. Biển vùng Địa Trung Hải cũng xanh màu ngọc bích. Không hiểu vì sao. Trong vườn, trên những luống hoa đủ sắc màu, chủ nhân thiết kế nhiều mâm thức ăn cho chim trời. Người Mỹ rất coi trọng cây cỏ, hoa lá, chim thú. Trong bảng xếp hạng, ưu tiên con nít, đàn bà, người già, chó mèo, cỏ cây hoa lá, sau cùng mới đến lượt cánh đàn ông.

Tôi không đi thăm đại gia Kenworth là vì hình ảnh chiếc truck 28 bánh không gây cảm xúc gì. Nhưng với Microsolf thì khác. Bill Gates luôn là nguồn cảm hứng đối với tôi.
Gates sinh năm 1956, là một thiên tài máy tính, 13 tuổi thành lập “Nhóm những nhà lập trình trường Lakeside”, 19 tuổi thành lập công ty Microsolf, là người giàu nhất thế giới (tài sản tăng trung bình 10 triệu USD mỗi ngày).
Gates có cá tính mạnh mẽ, học giỏi, cực kỳ thông minh, phóng khoáng, ưa được thách thức, có óc hài hước và nụ cười duyên dáng. Là một trong những người làm thay đổi phong cách làm việc và vui chơi của thế giới. Là nhà quản lý biết nhìn xa trông rộng, có năng lực giải quyết vấn đề, tận tụy, giản dị, dân chủ và biết tôn trọng thuộc cấp.
Tôi đặc biệt thú vị về những ý tưởng độc đáo của Gates. Ví dụ: “Một trong những thách thức của Microsolf hiện nay là rất nhiều nhân viên chưa nếm mùi thất bại bao giờ”, “Thành công là người thầy tồi tệ vì nó làm cho những con người thông minh nhất nghĩ rằng mình không thể thất bại”, “Mâu thuẫn có thể là biểu hiện của sự tốt lành”, “Khi mắc phải sai lầm thay vì phí thời gian và công sức tìm xem lỗi của ai thì nên tập trung xem phải sửa chữa bằng cách nào”, “Không sợ những người thông minh mà chỉ sợ những kẻ ngu đần”. Là người giàu nhất thế giới, nhưng Gates “sẽ dùng số tiền tích lũy được làm những điều lợi ích cho nhân quần xã hội... chỉ để một phần tài sản cho con cái đủ để làm bất cứ chuyện gì nhưng không đủ để không làm gì hết”...
Đế chế Microsolf ngự trị trong một khuôn viên rộng 270 mẫu Anh tại Redmond, với 20 ngàn nhân viên và 48 chi nhánh trên toàn thế giới. Tôi mê mẩn đề nghị anh Lâm cho tôi tiếp tục lòng vòng quanh vương quốc kỳ lạ của Bill Đại đế. Toàn bộ khu tổng hành dinh nầy mang dáng vẻ và âm hưởng của một trường Đại học. Ai ngờ bên sau khung cửa kia là những bộ óc thông tuệ nhất lao động cực lực 18 giờ một ngày. Tôi nghe nói văn phòng của Bill Gates đặt ở tòa nhà số 8, tôi dừng lại đó chụp nhiều ảnh và ngắm nghía khá lâu. Trông nó hoàn toàn không khác chi các tòa nhà khác.
Chia tay Microsolf, tôi thầm nghĩ, nhân vật độc đáo đó nếu không được sinh ra trong một gia đình mà cha mẹ sẵn sàng lắng nghe ý kiến của con cái và biết tôn trọng ý kiến của con cái từ lúc còn nhỏ, không được sinh ra trong một môi trường mà tài năng được tự do phát triển và được tưởng thưởng xứng đáng, thì liệu Bill Gates có là Bill Gates như ngày nay không?
Mãi ngày cuối cùng tôi mới có dịp đi thăm đại gia Boeing. Boeing là tên người kỹ sư sáng lập Công ty vĩ đại nầy (William Boeing, 1881-1956). Trước đây tôi chỉ biết Boeing là đối thủ số một của Airbus, chuyên sản xuất loại máy bay dân dụng. Sang đây mới biết thêm, Boeing còn sản xuất các loại máy bay quân sự, hỏa tiễn liên lục địa, hỏa tiễn địa không... cho Bộ quốc phòng Mỹ, và tham gia chương trình phi thuyền con thoi của NASA.
Seattle , Boeing có 3 cơ sở lớn. Một ở Renton, một ở cạnh xa lộ 1-5 và một ở Everett . Tôi chỉ thăm cơ sở Everett , là nơi chuyên sản xuất loại Boeing 747 - loại máy bay tôi đã đi trong suốt cuộc du hành. Đây là loại máy bay cực lớn, hai tầng, chở trên 400 người. Tour tham quan nhằm giới thiệu cho du khách các công đoạn của qui trình sản xuất Boeing 747, từ tập kết vật liệu cho đến khi máy bay hoàn thành, xuất xưởng. Người hướng dẫn viên vừa chỉ chỏ vừa cung cấp những thông số, mới nghe tôi đã hoảng hồn. Ví dụ: đuôi chiếc máy bay cao bằng tòa nhà 6 tầng, giá mỗi chiếc 174 triệu USD, tòa nhà để lắp ráp chiếc máy bay không có trụ chống và rộng bằng 40 sân vận động quốc gia. .. dễ lện nhất là khi được sờ vào vỏ chiếc máy bay. Tôi không thể ngờ nó mỏng đến thế. Mỏng đến nỗi vào phút ấy, tôi vụt có ý nghĩ sẽ không bao giờ dám đi máy bay nữa. Thế mà sau nầy khi đã ngồi trên máy bay, nhìn lớp xốp tổng hợp dày dặn ốp vào thành vỏ, tôi đã yên lòng ngay, mà dành hết tâm hồn cho khoảng không bao la ngoài kia, xanh thăm thẳm, và mênh mông đến tận cùng.

Mười ngày với Seattle , được bè bạn đưa đi nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người, nhìn ngắm từ nhiều góc độ. Mãi khi chia tay tôi mới nhận ra rằng, gọi là “Thành phố xanh màu ngọc bích” thì không phải chỉ là trời xanh, đất xanh, biển xanh mà còn cả tình xanh. Tôi chỉ tiếc không kịp ngắm mưa rơi trên thành phố nhiều mưa nhất nước Mỹ nầy. Nhưng rồi lại nghĩ, đã từng bốn mùa ướt sũng với mưa Huế, bây giờ không ngắm được mưa Seattle hay mưa bất cứ nơi nào trên thế giới thì cũng chẳng sao.
Chiếc máy bay đưa tôi rời Seattle bay ngang qua Mount Rainier . Bỗng nhớ chuyến du sơn kỳ thú hôm ấy; vẫn còn sống động trong tôi cái cảm giác tuyệt vời về một đỉnh cao tuyết trắng, sáng loáng, vô nhiễm, nơi cái lạnh và cái nóng đã cùng tồn tại hằng triệu triệu năm rồi.
Huế, 12/2000
N.V.D
(nguồn: TCSH số 162 - 08 - 2002)

Các bài mới
Các bài đã đăng
Dì Ty (29/08/2008)