| Như chàng “vệ sĩ của đêm đen” (chữ dùng của Ngô Minh). Nguyễn Khắc Thạch là người trầm tư trước cuộc đời, phán xét sự vật đến tận cùng bản chất, anh can đảm “hôn xác chết”, tự tin, lặng lẽ đối đầu với chúng. Đứng chênh vênh một chân bên dòng sông một bờ, Nguyễn Khắc Thạch rụt rè tường trình lại khá sắc bén và chọn lựa những phát hiện mới lạ về cõi người hiện sinh, chỉ ra những nguyên cớ đang huỷ hoại nhân tính làm tan rã các kỷ cương giường mối xã hội.Thời tôi sống ruồi nhặng sành mâm cỗ
 họ hàng tôm vẫn lộn đít lên đầu
 chó ngoại hết hời ra kiếm ăn hè phố
 trẻ bụi đời lòng cạn mắt sâu.
 
 Thời tôi sống vô cảm điều trông thấy
 dọc đường quan mặt nạ mặt tiền
 những thầy tu hành đạo trên xe máy
 hẳn đường về cõi Lạc có gần hơn.
 
 Thời tôi sống giấc mơ vàng ô nhiễm
 trọc phú lập loè như đom đóm ma trơi
 tôi ươm bạc chay thiền phù phiếm
 anh tinh đời vờ một gã ham chơi.
 
 Thời tôi sống thương mình trơ cá gỗ
 nỏ tơi mang mà chẳng áo công hầu
 đất của cỏ thì trời cao gác trọ
 sợ miếng mồi như cá sợ mắc câu.
 
 Thời anh sống khác thời tôi sẽ viết
 sống thời tôi chín dễ nên mười
 nhưng không dễ sống mà không biết
 sống mà nghi mình có phải là người.
 (Gửi Nguyễn Trọng Tạo)
 Sự bất lực trước đấng cao xanh, vĩnh hằng, nỗi cuồng say dâng hiến, bước đam mê gập ghềnh kiếm tìm nửa kia trong tình yêu, cái đẹp lao đao bởi thương tích đầy mình, tự do bị bắt chẹt, “những khoảng trống lương tri bị dối lừa”… đã dẫn đến những vỡ mộng, con người rơi vào cõi mênh mông buồn “Ta chẳng có gì ngoài ta – ngoài chẳng là gì trong ta – áo cơm bờm xơm vỗ mặt – hư danh cầm cố thi ca” (Tự khúc). Thơ Nguyễn Khắc Thạch buồn, mang mang nỗi buồn trước hy vọng và tuyệt vọng, trước nỗi quay quắt của áo cơm cùng sự khủng hoảng đức tin, trước sự dấn thân trong nước mắt tủi hờn đầy kiêu hãnh. Chẳng riêng gì Thạch, Cụ Nguyễn Du xưa cũng đã từng than “Cổ kim hận sự thiên nan vấn” (Những mối hận xưa nay khó mà hỏi trời được). Người ta khổ vì có trí tuệ, Thạch khổ vì biết quá nhiều! Anh gọi nỗi buồn về nhận mặt, bóc trần nó ra cho mọi người thấy. Nhà thơ không ngồi nhấm nháp tận hưởng thú đau thương như Lưu Trọng Lư, anh thành khẩn nhìn thẳng vào nỗi buồn để nhận diện chính mình và mọi lẽ quan thiết khác ở đời. Cuộc tìm kiếm mình là một hành trình khổ ải “Ta mang lỗi lầm của máu không đổi màu - Sự nhức nhối thời gian hoá thạch” (Nơi ta sẽ về). Năng lượng cảm thức sâu sắc của nhà thơ đã thuyết phục được chúng ta. Chính vì vậy, đến với thơ Nguyễn Khắc Thạch đòi hỏi ở bạn đọc ít nhiều đồng điệu.
 Đầu này một chiếc dép
 chỉ một chiếc dép đầu này
 mà đầu kia phải lệch
 mà đầu kia là cả… không gian
 (Bồ Đề Đạt Ma)
 Đắng cay nào đắng cay hơn:
 Tôi như gã tín đồ bị rút phép thông công
 khi thiên đàng dang ngang sợi tóc
 em soi vào tôi gương mặt người đàn ông khác
 em chỉ sống vì tôi khi đã chết cho người
 (Mặc cảm)
 Có nỗi đau nào đau hơn:
 Ta ngồi dại hoá đôi khi
 Thèm đau lần nữa những gì đã đau
 (Gửi trăng)
 Khi thịnh cần cẩn trọng, khi suy cần nhẫn nại. Mọi con đường phần cuối giống nhau, chỉ khác nhau phần đầu. Điều trọng yếu là phải biết sử dụng đời sống, chứ không than vãn để kéo dài tuổi sống. Mặc dù thế giới đầy khổ ải, song cũng đầy những tấm gương vượt qua bể khổ ấy bằng chính con thuyền thơ mỏng manh của mình.
 Là “đứa con hoang của mọi tín điều…”, thi nhân trở dạ làm thơ trong tâm thế ấy. Mạch thơ sám hối, trầm uất lung linh lan toả phản ánh sự chiêm quan khắc khoải, quằn quại bởi roi vọt tai ương và giàn giụa nước mắt cô độc. Giống như chúa Giêsu lê nặng cây thánh giá. Nguyễn Khắc Thạch oằn lưng vác nỗi khổ đau của đời người “Anh cứ đi như chiếc bóng giữa đời – Mong tìm được những gì không mất”.  Nhà thơ phơi trần góc khuất tâm linh, chiếu rọi ánh sáng lương tri lương năng để phục sinh mình. Thơ Thạch được thai nghén trong sự tuyệt vọng “anh như xác vỏ chai lăn ra ngoài cuộc rượu” để sinh hạ ra những đứa con của sinh tồn.Trong một chừng mực nào đó, cảm quan của nhà thơ thiếu sáng, có lúc duy lý đến phũ phàng:
 Tôi say lấp chiều lỗi hẹn
 có như không là gió là lời
 đêm cất vó tang bồng tơ nhện
 đom đóm lập loè vỗ mặt trêu ngươi
 
 Tôi say sấp chiều đêm rơi
 ngõ buồn khê ngọt đường hoa trái
 Rồi sẽ đắng người ơi khi tỉnh lại
 thấy những điều giả dối trong nhau
 (Ẩn ức)
 Mở mặt chào cơm áo
 Ôm lòng buốt ngọc châu
 Mắt chiều vô tôn giáo
 Nhắm linh hồn vào đâu.
 (Tứ thơ)
 Thơ Nguyễn Khắc Thạch hút người bằng tâm tình kín đáo, là tiếng vọng của nỗi buồn thấm, cao khiết, trang trọng.
 Trời tròn lưng bánh tét
 Đất vuông lòng bánh chưng
 Dân nghèo thương ngày tết
 Gói đất trời rưng rưng.
 (Gói)
 Biển như ngân giữa hồn tôi
 Câu thơ nghiêng biển nghiêng trời là em
 (Biển và em)
 Nhà thơ luôn sống một thế giới ảo:
 Có một mùa hè mắc cỡ
 Cỏ hoang neo gió sững sờ
 Lá bàng rơi nung lửa nhớ
 Đài sen rụng vỡ hương mơ
 (Kí ức)
 Xuân biên giới với nét cọ phác thoáng đẹp đến thắt lòng :
 Nơi ấy xuân về sớm hơn
 Nắng trở mình phơi mái núi
 Rừng già loà xoà bóng tuổi
 Vội xanh lại mé đông tàn.
 (Biên giới)
 Nhà thơ đằm mình trong sự chiêm nghiệm, suy tưởng đến kiệt cùng:
 Hạt mưa cứ ngỡ của trời
 Ai ngờ đất khát vẽ vời làm mưa
 Nối bây giờ với xa xưa
 Biết mưa còn nối bây giờ - mai sau?
 Hạt mưa tan vỡ vì nhau
 Hình như mưa cũng đổi màu buồn vui.
 (Mưa)
 Nỗi buồn đó của Nguyễn Khắc Thạch mang một hình thái cứu rỗi. “Loại thơ cao siêu luôn hướng tới sự bất tử trong nỗi thống khổ của con người”. Từ mấy thế kỷ trước, Vonter đã chỉ ra như thế.
 Thơ Nguyễn Khắc Thạch được nuôi dưỡng bằng một thứ tình yêu trần trụi, máu thịt nên kiệm lời, tứ đúc, ý tưởng dồn nén trong từng câu chữ. Nó là một thứ văn bia tác động đến tư duy trước, truyền mỹ cảm đến sau.
 Bên thềm hoang
 thiếu phụ
 thoát y nằm
 Ngọn nến cháy
 sau vầng trăng khuyết…
 (Thiền)
 Người qua đêm mang đêm đi xa
 Đêm thắp nến hàn trăng lữ thứ
 Đêm thấm khát màu son trinh nữ
 Để tái sinh cho huỷ diệt sau cùng…
 (Đêm)
 Nhà thơ sống trong linh giác mùa thu “Nắng thun chiều gió úa cài then”; sống trong cơn uất ức “biên chế cõng mấy nhà thơ tầng trệt – ăn nói cao hơn tầm thước con người” (Gửi Nguyễn Trọng Tạo); sống trong tâm trạng níu kéo sợ hãi “Muốn ôm chặt chiều - Chiều lại ngả vào đêm” (Chiều), bởi nhà thơ đinh ninh rằng mình đã bị lừa dối ngọt ngào “Tôi đi dọc tháng năm thừa – cô đơn úp mặt dối lừa cô đơn” (Gửi Nhật Lệ), Tín nghĩa bị xâm phạm, nhà thơ thắc mắc đến cái “đức tin có bảo hành – và chỗ dựa có đức tin - chỉ là những gì mong manh hư ảo” (Ý tưởng). Nhà thơ hoài nghi “chiếc mặt nạ hài hước - sự thật trở nên tàn nhẫn hơn”. Nhà thơ buồn vì “bao giờ con người cũng là một thực thể kép - ước vọng thì đầy nhớ tiếc thì vơi” (Thông cảm). Nguyễn Khắc Thạch luôn mặc cảm coi mình là kẻ đang lâm nạn “anh bị chém bằng lưỡi rìu ngôn ngữ - những đổ vỡ hư danh như hoàng hôn bầm dập đáy chiều - bức tranh món ăn không no được bụng - hiện thực cục cằn như kẻ đói yêu…” (Hiện thực). Không có gì làm ta cao thượng bằng một niềm đau khổ  lớn lao. Trông cây mà ngẫm đến mình “Thấy thương cây cũng cụt đầu vì cao” (Với cây). Người ta thường căm ghét những gì làm họ sợ. Và, chết là sự giải thoát cho kiếp người “Áo cơm thôi sấp ngửa – Hương khói còn so đo - Những gì thắp được lửa - Rốt cùng đều thành tro” (Viếng mộ). Nhà thơ lại ngồi ước gì được quay về cái hồi  “Mải chơi tiền lá rụng đầy tuổi mơ”, mong lấy lại niềm tin xanh “Nơi cây cỏ trinh niềm hoang dã - mỗi bước đi qua xanh mãi thuở ban đầu”. Một người phải chờ đợi, thời gian dài, nặng nề và lạnh lắm “Đôi khi nghe cái quen nghe mà rợn – Chó sủa từ không thành có… đêm dài”  (Tiếng đêm). Nguyễn Khắc Thạch viết về thời gian khá hay và rất sâu. Theo anh, nó là khí cụ hiệu nghiệm để đong lường kiếp sống của chúng ta:
 Ngày là kim chỉ thời gian
 dại khờ khâu vá khôn ngoan kiếp người
 ngày là lưỡi hái lường chơi
 mỗi ngày liếm một mảng đời như không.
 (Ngày)
 Em chờ anh
 sau mặt phẳng thời gian cuốn chiếu
 hồn đá vọng phu
 nửa thừa mang tang nửa thiếu
 (Hoài vọng)
 Thời gian như cái thùng bia
 Rót vào cốc chén là chia tháng ngày
 
 Không gian như nắm bàn tay
 mở ra cầm chốn lưu đày bể dâu
 
 Người ta vói mắc hai đầu
 Thả mồi bong bóng mà câu… chính mình
 (Ngộ)
 
 Chừng ấy đủ biết Nguyễn Khắc Thạch là người đang bệnh! Anh mắc chứng đa cảm trầm kha. Thà bị bệnh ở thể xác còn hơn bệnh ở tâm hồn. Bệnh tật của tâm hồn còn đáng sợ hơn bệnh tật của thân thể. Thân bệnh có thể nhờ người khác chữa dùm, nhưng tâm bệnh phải chính mình chữa lấy. Chúng tôi thấy Nguyễn Khắc Thạch cũng đang tự chữa cho mình rồi đấy. “Những căn bệnh tuyệt vọng cần những liều thuốc tuyệt vọng” (Ngạn ngữ Anh). Điều chính yếu trong cuộc đời là không nên than vãn điều gì và không bao giờ nhìn lại những đổ vỡ phía sau.
 Nguyễn Khắc Thạch có một bài thơ thuộc hàng kiệt tác khi anh viết về tình yêu đơn phương. Ngọc toàn bích không hề gợn một chút tì vết nào:
 Có một dòng sông mang tên em,
 Dòng sông anh tự đặt
 Xin mùa thu chiếc lá làm thuyền
 
 Có một dòng sông  trôi vào lãng quên
 nước trong như nước mắt
 điều chưa đến mà sao thấy mất
 
 Có một dòng sông chỉ có một bờ
 Phía bên kia quay mặt
 dòng sông anh không qua được bao giờ.
 (Dòng sông một bờ)
 Tiếp tục lối tư duy đó, Nguyễn Khắc Thạch mạnh bạo, phóng túng và quả quyết phá vỡ cấu tứ niêm luật truyền thống, làm cho cổ điển và tự do hài  hoà vào nhau tạo nên một từ trường mới bằng một thi pháp mới:
 Hồn của mưa làm lạnh cơn mưa xác
 khiến cơn mưa đồng loã giọt buồn
 để em thấy mưa là nước mắt
 
 Những cơn mưa tái sinh màu đất
 những cơn mưa thuỷ táng khung trời
 để em thấy mưa là hai mặt
 
 để em thấy mưa là chia cắt
 phía thành sông vẫn chảy rẽ chia bờ
 để em thấy mưa không dập tắt
 cõi mật tinh lửa vẫn cháy trong mơ…
 (Mưa hai mặt)
 Từ thi pháp hiện đại đó, Nguyễn Khắc Thạch rất có ý thức lập tứ cho từng bài thơ, từng câu thơ, dựng lên được xương cốt vững chãi cho toàn bài thơ. Thử xem, anh đã khắc đá được một chân dung tính cách chân xác nhờ cung cách đó như thế nào:
 Ông vốn trắng tay không chải đầu bằng lược
 Cái đầu nhà thơ đâu cần sự ve vuốt nào
 Ông nuôi rượu canh giữ lòng trung thực
 
 Và ông đã nhặt được chính mình từ những thứ đem cho
 Có nỗi đau ngoài tầm nước mắt
 Cánh chim cô đơn khi vượt trước bầy đàn.
 … Ông đã vớt thơ ra khỏi sóng đời mình…
 (Trích ngang Phùng Quán)
 
 Thơ Nguyễn Khắc Thạch ánh lên chất mỉa mai, phúng thích thói đời và những mặt trái của đời sống xã hội để người đọc nhận thức nó, thấm thía phẫn nộ vì nó:
 Ai đã thấy những gì cao hơn các tượng đài
 Những gì sâu hơn đáy cốc trên bàn tiệc
 Ai đã lấy ngực che Tổ quốc?
 Còn ai đem Tổ quốc che thân?
 (Những câu hỏi bâng quơ)
 Khi niềm tin ta đã đóng đinh
 thì cây thánh giá kia
 cần chi phơi hình Chúa
 
 Sự thật là thanh gươm lành trong vỏ
 nhưng rút ra rồi…nó đau đớn biết bao.
 (Trả giá)
 Một số nhà thơ cả trẻ lẫn già bây giờ ưa chạy theo thi pháp hình thức mà lờ đi thi pháp nội dung. Họ chỉ tạo ra những cách nói lạ tai nhưng vô nghĩa. Nguyễn Khắc Thạch quan tâm cân đối cả hai. Những đoạn thơ vừa dẫn trên  rất dân tộc và cũng khá hiện đại. Thi pháp ấy súc tích đến mức đã tạo ra những khoảng lặng cho người đọc ngẫm nghĩ.
 Cây lá tự rứt mình trả nợ đất đai
 Câu thơ rứt nỗi buồn chết không thành xác
 Cuộc vay trả quy đồng cỏ rác
 Rợn lối mòn ảo giác mùa thu.
 (Ảo giác mùa thu)
 Cá tính sáng tạo thơ tạo nghĩa với hai yếu tố triết và thiền của Nguyễn Khắc Thạch mạnh, hình thành nên bản lĩnh thơ. Các thi phẩm của anh đều mang dấu ấn hiện đại, nhân bản.
 Giữa hai dòng thơ “phấn son” và thơ “lem luốc”, thơ Nguyễn Khắc Thạch thuộc dòng thứ hai.
 “Thảy vốn liếng đời ta nhóm lửa yêu thương”, Nguyễn Khắc Thạch đã huy động óc tim cùng với “âm bản của nước mắt”, phát giác bề sâu sự vật, chế tạo được thứ cốt mìn chứa đầy buồn đau và trách nhiệm đang “nổ tung những nhịp thơ đá vỡ” (chữ của Nguyễn Trọng Tạo).
 T.D.H
 
 (nguồn: TCSH số 228 - 02 - 2008)
  |