Tạp chí Sông Hương - Số 205 (tháng 3)
Unesco với Huế và các di sản thế giới của Việt Nam
10:13 | 26/11/2008
PHAN THUẬN ANMối quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt đã bắt đầu có từ hơn nửa thế kỷ trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong gần 30 năm trở lại đây.

Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Bộ Văn hóa Thông tin nước chủ nhà đã đóng góp những vai trò xúc tác quan trọng trong mối quan hệ làm việc giữa tổ chức UNESCO đóng trụ sở trung tâm tại Paris cũng như Văn phòng chi nhánh Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đóng tại Bangkok và các quan chức Việt Nam ở những tỉnh có di sản mang giá trị toàn cầu nổi bật.

Riêng Huế, kể từ quan hệ bước đầu cho đến khi Quần thể Di tích tại đây được ghi tên vào Danh mục Di sản Thế giới là cả một cuộc hành trình khá dài. Có thể nói cuộc hành trình đi đến Di sản Thế giới của Huế là dài nhất và bất trắc nhất so với các Di sản Thế giới khác của Việt được công nhận về sau, vì trước Quần thể Di tích Huế, chưa có được một tiền lệ nào ở trong nước. Cho nên, những người thiết lập bộ hồ sơ về Di tích Huế đã phải tìm hiểu các tổ chức quốc tế liên quan đến vấn đề, từ Liên Hiệp Quốc đến UNESCO, rồi nghiên cứu từ thủ tục đến các tiêu chuẩn do UNESCO đưa ra mà một di sản muốn được công nhận cần phải đáp ứng.

TỪ TỔ CHỨC LIÊN HIỆP QUỐC ĐẾN UNESCO
- Tổ chức Liên Hiệp Quốc (United Nations Organization) được thành lập vào đầu năm 1945 tại San Francisco (Mỹ) với mục đích mang lại hòa bình và thịnh vượng cho các nước trên thế giới. Vào thời điểm ấy, đệ nhị thế chiến chưa chấm dứt.
- UNESCO (viết tắt từ United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization, dịch ra là Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc) được thành lập vào cuối năm 1945 tại Luân Đôn (Anh) để tìm cách giúp các nước hàn gắn lại vết thương chiến tranh (1939-1945) về các phương diện giáo dục, khoa học và văn hóa. Trụ sở UNESCO đóng tại Paris (Pháp).
- Năm 1972, UNESCO thông qua Công ước Bảo vệ Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới (Convention concerning the Protection of the World Cultural and Natural Heritage). Công ước có 8 chương, gồm 38 điều. Mục đích của nó là tìm cách bảo vệ các tài sản văn hóa và thiên nhiên quí báu của nhân loại.
- Năm 1976, UNESCO thành lập Ủy ban Di sản Thế giới (World Heritage Committee) để chuyên trách về những vấn đề liên quan đến các Di sản loại ấy.
- Năm 1977, Ủy ban Di sản Thế giới đưa ra các tiêu chuẩn cần có để một tài sản được ghi tên vào Danh mục Di sản Thế giới.
- Đồng thời, hai tổ chức quốc tế sau đây cũng được thành lập để đóng vai trò tư vấn cho Ủy ban Di sản Thế giới trong việc xét duyệt và thẩm định các hồ sơ đăng ký, đệ trình:

1. ICOMOS (viết tắt từ International Council On Monuments and Sites, dịch ra là Hội đồng Quốc tế về Di tích và Di chỉ).
2. IUCN (viết tắt từ International Union for Conservation of Nature and Natural Resources, dịch ra là Hiệp hội Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và các Tài nguyên Thiên nhiên).
- Năm 1978, Ủy ban Di sản Thế giới công nhận và ghi tên 12 tài sản đầu tiên vào Danh mục Di sản Thế giới.
- Đồng thời, Ủy ban cũng thông qua Biểu tượng Di sản Thế giới do Michael Olyff vẽ:
Hình vuông nằm bên trong hình tròn và nối liền nhau. Hình vuông biểu trưng cho kiệt tác do con người sáng tạo ra. Hình tròn biểu trưng cho thiên nhiên, trái đất và thái độ bảo vệ chu đáo của nhân loại. Hai hình khối liền nhau nói lên sự hài hòa và thống nhất.
Biểu tượng này được gắn ở tất cả các Di sản Thế giới.

UNESCO VỚI VIỆT VÀ QUẦN THỂ DI TÍCH HUẾ
-Năm 1951, Việt Nam thời Quốc trưởng Bảo Đại gia nhập UNESCO, đã có đại diện tham dự lần đầu tiên trong cuộc họp lần thứ 7 của Đại Hội đồng UNESCO được tổ chức tại Paris vào năm 1952, rồi trong cuộc họp lần thứ 8 của Đại Hội đồng UNESCO được tổ chức tại Montevideo (Thủ đô của nước Uruguay ở Nam Mỹ) vào năm 1954.
-Về sự giúp đỡ của UNESCO cho Việt Nam bấy giờ, theo thoả ước ký kết ngày 21-5-1955 giữa tổ chức ấy và nước thành viên này, UNESCO trợ cấp cho Việt Nam thành lập một Trung tâm tập huấn tại Tân An (Nam Bộ) nhằm đào tạo các cán bộ xoá nạn mù chữ và các kỹ thuật viên có nhiệm vụ phổ biến những phương pháp mới về nghề trồng lúa để tăng năng suất cho loại cây trồng này. Nguồn tài trợ cho Trung tâm ấy là do Ban Viện trợ Kỹ thuật của Tổ chức Liên Hiệp Quốc cung cấp, dùng để xây dựng Trung tâm, mua sắm trang thiết bị và trả mọi chi phí cho các kỹ thuật viên nước ngoài đến huấn luyện tại Việt Nam. Trung tâm bắt đầu hoạt động từ năm 1956. Về phương diện giáo dục, theo thoả ước ký kết ngày 14-11-1954, UNESCO tài trợ bằng trái phiếu cho Việt Nam có được những ngoại tệ mạnh để mua từ nước ngoài những sách vở và những thiết bị trường học cần thiết.

Nhưng, sự quan tâm giúp đỡ quan trọng và hữu ích nhất của UNESCO đối với Việt , nhất là đối với Huế, là về phương diện bảo tồn các tài sản văn hóa và thiên nhiên.
- Năm 1971, rồi năm 1973, UNESCO hai lần cử một chuyên gia là KTS Brown Morton đến Huế để tìm hiểu về tình hình di tích triều Nguyễn tại đây và lượng định một khả năng trùng tu.
- Năm 1974, ông đệ trình lên UNESCO một tập báo cáo kỹ thuật nhan đề là “The Conservation of Historic Sites and Monuments of Hue” (Bảo tồn các Di chỉ Lịch sử và Di tích Huế).
- Năm 1976, một năm sau khi thống nhất đất nước, Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt chính thức gia nhập UNESCO.
- Năm 1978, UNESCO cử một chuyên gia khác là KTS Pierre Pichard đến Huế nghiên cứu kỹ hơn về tình trạng di tích tại chỗ. Khi trở về Paris , ông đệ trình lên UNESCO một tập báo cáo kỹ thuật khác, nhan đề là “La Conservation des Monuments de Hué” (Bảo tồn Di tích Huế).
- Năm 1980, UNESCO và Chính phủ Việt đưa ra một “Kế hoạch Hành động” (Plan d' Action) nhan đề là “Bảo vệ, tu sửa và tôn tạo Di tích Huế”.
- Năm 1981, sau khi đi thăm Huế, tại Hà Nội, Ông Tổng giám đốc UNESCO bấy giờ là Amadou- Mahtar- M'Bow đọc Lời kêu gọi “Vì công cuộc bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá của Thành phố Huế” để phát động cuộc vận động quốc tế nhằm bảo tồn di sản văn hoá của Cố đô này.
- Năm 1982, “Nhóm Công tác Huế- UNESCO” (Hue- UNESCO Working Group) được thành lập; gồm một số thành viên Việt Nam và một số thành viên UNESCO; họp một năm hoặc hai năm một lần tại Huế và, hoặc Hà Nội để vận động sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế và đưa ra các khuyến nghị thích đáng đối với việc bảo tồn Di tích Huế.
- Năm 1987, Việt gia nhập “Công ước Bảo vệ Di sản Văn hoá và Thiên nhiên Thế giới” vốn đã được UNESCO hình thành từ năm 1972. Cho đến năm 2005, số nước thành viên của Công ước này đã lên đến 180.
- Năm 1990, trong lần họp thứ 5 của mình, Nhóm Công tác Huế- UNESCO đề xuất với Chính phủ Việt Nam nên lập hồ sơ khu Di tích Huế và một số khu Di tích Danh thắng khác trong nước để đệ trình UNESCO xem xét đưa vào Danh mục Di sản Thế giới.
- Tháng 2-1991, Chính phủ Việt quyết định lập hồ sơ cho 5 di sản văn hoá và thiên nhiên sau đây để đệ trình UNESCO:

            1. Khu di tích Huế.
            2. Khu di tích và danh thắng Hương Sơn.
            3. Khu di tích Đinh- Lê ở Hoa Lư.
            4. Khu rừng quốc gia Cúc Phương.
            5. Khu danh lam thắng cảnh Vịnh Hạ Long.
- Tháng 4- 1991, Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam gửi văn thư đến các tỉnh sở tại của 5 khu di tích và danh thắng ấy, đề nghị các cơ quan chủ quản liên quan xúc tiến việc lập hồ sơ.
- Tháng 9-1991, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế làm xong bộ hồ sơ, gồm hồ sơ viết, album ảnh tư liệu, album ảnh hiện trạng, băng hình, các sơ đồ, bản đồ, bản vẽ kỹ thuật, ảnh chụp từ máy bay, từ vệ tinh (tổng thể và chi tiết).
- Tháng 10-1991, sau khi phê duyệt, Bộ Văn hoá Thông tin gửi 5 bộ hồ sơ nói trên đi Paris cho UNESCO (kèm theo công văn của Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt ).
- Tháng 1-1993, UNESCO gửi công văn đề nghị phía Việt bổ sung các slides và bản đồ khoanh vùng bảo vệ các khu di tích và danh thắng đã được pháp lý hoá.
- Tháng 3-1993, hai chuyên gia kỹ thuật của ICOMOS và IUCN là Henry Cleere và Jeane Thorsell đến Việt , trong đó có Huế, để thẩm định tình trạng và giá trị của các khu di tích và danh thắng nói trên.
- Tháng 9- 1993, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế gửi các tài liệu bổ sung cho UNESCO.
- Ngày 11-12-1993, sau cuộc họp lần thứ 17 của Ủy ban Di sản Thế giới từ ngày 6-12-1993 tại Colombia, Ông Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor Zaragoya ký văn bản công nhận Quần thể Di tích Huế là Di sản Văn hoá Thế giới (Vịnh Hạ Long được công nhận sau đó một năm. Còn 3 khu di tích và danh thắng kia thì không được thông qua, vì không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế).
- Năm 1994, Vịnh Hạ Long được công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới đầu tiên của Việt .
- Năm 1999, Phố cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn trở thành 2 Di sản Văn hóa Thế giới khác của nước ta.
- Năm 2003, Vườn Quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng được công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới.

Ngoài ra, cũng cần biết thêm rằng, kể từ năm 1997, UNESCO còn mở ra thêm một hướng mới trong việc cố gắng bảo tồn những di sản văn hoá phi vật thể trên địa cầu. Và, lần đầu tiên, vào năm 2001, UNESCO đã duyệt xét và công nhận19 “Kiệt tác Di sản Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại” (Masterpieces of the Oral and Intangible Heritage of Humanity), như “Hát Côn khúc” (Kunqu Opera) của Trung Quốc, Kịch “Nô” của Nhật Bản, Lễ nhạc tế Văn Miếu của Hàn Quốc...

Lần thứ hai vào năm 2003, UNESCO đã duyệt xét và công nhận 28 Kiệt tác Di sản Phi vật thể khác của các nước trên thế giới, trong đó có “Nhã nhạc, Âm nhạc Cung đình Việt Nam”. Và gần đây nhất, trong lần thứ 3, vào năm 2005, UNESCO cũng đã ghi thêm vào Danh mục ấy 43 Kiệt tác Di sản Phi vật thể khác nữa của nhân loại, trong đó có  “Không gian Văn hóa Cồng chiêng” (The Space of Gong Culture) của Việt .

TẠI SAO DI TÍCH HUẾ ĐƯỢC CÔNG NHẬN?
Năm 1997, Ủy ban Di sản Thế giới đã đưa ra những tiêu chuẩn để duyệt xét và thẩm định các bộ hồ sơ trên khắp thế giới gửi đến. Trong đó, tiêu chuẩn cao nhất là tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên phải có “giá trị toàn cầu nổi bật” (outstanding universal value).
Các tài sản được chia làm hai loại: tài sản văn hoá (do con người sáng tạo ra) và tài sản thiên nhiên (có sẵn trong trời đất). Quần thể Di tích Huế thuộc loại tài sản văn hoá.
Theo các tiêu chuẩn do Ủy ban Di sản Thế giới nêu ra, một tài sản văn hoá quốc gia, như Quần thể Di tích Huế chẳng hạn, muốn được công nhận ở tầm mức quốc tế, phải:

- Tiêu biểu cho một thành tựu nghệ thuật độc đáo, một kiệt tác do bàn tay con người tạo dựng; hoặc:
- Có giá trị to lớn về mặt kỹ thuật xây dựng, nghệ thuật kiến trúc trong một kế hoạch phát triển đô thị hay một chương trình làm đẹp cảnh quan tại một khu vực văn hoá của thế giới; hoặc:
- Tiêu biểu cho một quần thể kiến trúc của một thời kỳ lịch sử quan trọng; hoặc:
- Kết hợp chặt chẽ với các sự kiện trọng đại, những tư tưởng hay tín ngưỡng có ảnh hưởng lớn, hay với các danh nhân lịch sử.

Ngoài ra, một tài sản văn hoá muốn được quốc tế công nhận, phải  được xác nhận đầy đủ về mặt pháp lý và phải có cơ quan quản lý bảo đảm công tác bảo tồn nó. Do đó, cần phải có pháp lệnh bảo vệ cấp quốc gia, cấp tỉnh hoặc cấp thành phố. Trong hồ sơ đệ trình, phải nói rõ về các pháp lệnh đó và phải cam kết thi hành có hiệu quả, và phải nêu ra kế hoạch quản lý thích đáng, bao gồm công tác bảo tồn và khả năng giới thiệu tài sản cho công chúng biết khả dĩ họ được tiếp cận, tham quan để hưởng thụ văn hoá.

Quần thể Di tích Huế và bộ hồ sơ đệ trình đã đáp ứng được hầu hết các tiêu chuẩn vừa nêu. Do đó, nó đã được Ủy ban Di sản Thế giới nhất trí công nhận.
Trong biên bản kết thúc cuộc họp của mình tại , Ủy ban đã nhận định vắn tắt như sau:
“Quần thể Di tích Huế: Kinh đô đầu tiên của nước Việt thống nhất, thành phố đã được xây dựng vào đầu thế kỷ 19 dựa theo các triết lý Đông phương và truyền thống Việt . Sự hoà quyện vào môi trường thiên nhiên, vẻ đẹp của kiến trúc đặc biệt và các công trình có trang trí là một phản ánh độc đáo của nền đế chế Việt ngày xưa vào thời đạt đến đỉnh cao của nó”.

Các văn kiện của UNESCO đều minh định rằng tất cả những tài sản như thế đều phải được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại bằng tình đoàn kết và tương trợ lẫn nhau giữa các nước; nước sở hữu tài sản được công nhận có thể nhận được những trợ giúp nhất định của cộng đồng quốc tế về tiền bạc, trang thiết bị, kỹ thuật và đào tạo chuyên viên ngành liên quan. Nhưng, về phía nước chủ nhà, nếu quản lý tồi, để cho di sản xuống cấp, tức là không còn giữ đủ tiêu chuẩn quốc tế nữa, thì nó sẽ bị UNESCO loại bỏ ra khỏi Danh mục Di sản Thế giới như đã được qui định ở một điều khoản trong văn kiện về các tiêu chuẩn quốc tế.

Nhìn chung trên toàn hành tinh của chúng ta, riêng về Di sản vật thể, kể từ khi UNESCO bắt đầu lập Danh mục vào năm 1978 cho đến năm 2005, con số di sản quí báu của nhân loại lần lượt được ghi tên vào Danh mục Di sản Thế giới đã lên đến 812, gồm:
- 628 Di sản Văn hoá, trong đó có Quần thể Di tích Huế (1993), Phố cổ Hội An (1999) và Thánh địa Mỹ Sơn (1999).
- 160 Di sản Thiên nhiên, trong đó có Vịnh Hạ Long (1994) và Vườn Quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng (2003).
- 24 Di sản hỗn hợp (Văn hoá và Thiên nhiên).
Còn về Di sản Phi vật thể, tính cho đến năm 2005, con số Di sản của tất cả các nước trên toàn thế giới đã được công nhận là 90, trong đó có Nhã nhạc và Không gian Văn hóa Cồng chiêng của chúng ta.

Như vậy, sau khi trải qua một số thử thách, Quần thể Di tích Huế đã trở thành Di sản Văn hoá Thế giới đầu tiên của Việt Nam và Nhã nhạc, Âm nhạc Cung đình Việt Nam cũng đã trở thành Di sản Văn hóa Phi vật thể đầu tiên của nước nhà. Sự vinh danh ấy, cùng với sự công nhận những di  sản văn hoá, thiên nhiên và phi vật thể khác của Việt Nam, đã góp phần nâng cao giá trị và danh dự của tổ quốc trước cộng đồng nhân loại.
              P.T.A

(nguồn: TCSH số 205 - 03 - 2006)

 

Các bài mới
Lửa kinh thành (27/11/2008)
Mùa Chạp (27/11/2008)
Các bài đã đăng
Mưa kim cương (25/11/2008)