Con trâu gắn liền với đời sống của người Việt, đặc biệt là trong công việc nặng nhọc: trâu kéo cày dưới đồng ruộng; trâu kéo gỗ trên ngàn; trâu được dùng trong chiến trận... Từ đời sống thực, con trâu đã đi vào lĩnh vực tinh thần, tâm linh của người Việt, trong đó: tượng trâu bằng đất nung đã được giới khảo cổ tìm thấy trong các di chỉ Tiên Hội, Đồng Đậu; vật trang sức hình đầu trâu tìm thấy ở di chỉ Đình Chàng - Hà Nội; hình ảnh trẻ mục đồng Việt Nam véo von thổi sáo trên lưng trâu; trâu hiện diện trong tranh dân gian và điêu khắc gỗ đình làng thế kỷ 17-18(1); con trâu - một trong mười hai con giáp... Trong 143 năm trị vì đất nước, bên cạnh những quy chuẩn pháp luật trong bộ máy hành chính, triều đình nhà Nguyễn còn tổ chức các lễ tế Nam giao, lễ Ban sóc (phân phát lịch Vạn toàn năm), lễ cày ruộng Tịch điền, lễ tế đàn Xã Tắc... hay ban hành những lễ tục mang tính giáo dục nhân dân ý thức chăm lo lao động, sản xuất. Tục tế trâu đất và Mang thần là một trong những tục lệ đáng quý đó.
Sách khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ ghi lại rằng: "Mang thần và trâu đất là lễ đời cổ để khuyên cày, lại là việc đầu xuân, có quan hệ đến gốc lớn của sinh dân... nguyên là ý chăm việc làm ruộng, khuyên bảo, giúp đỡ, ở Kinh thành đã cử hành trước thì các địa phương cũng nên tuân làm tất cả..."(2). Để chuẩn bị cho lễ tế trâu đất và Mang thần, triều đình nhà Nguyễn giao trách nhiệm cho Khâm Thiên Giám và ty Vũ Khố hàng năm đến ngày "thìn" sau ngày đông chí tổ chức cho hàng thợ thầy đến lấy đất và nước ở Phương thần Tuế đức về làm 3 con trâu đất và 3 vị Mang thần, dùng cây dâu, cây giá để làm thai cốt. Quan viên các địa phương phải đốc thúc ty Chiêm hậu mang thợ đến Phương thần Tuế đức lấy đất và nước về làm 1 con trâu đất và 1 vị Mang thần(3).
Theo quy định của triều Nguyễn, trâu đất có mình cao 4 thước nhà Chu (bằng 1 thước 9 tấc 2 phân) để tượng trưng cho 4 mùa, chiều dài từ đầu đến đuôi trâu là 8 thước nhà Chu để tượng trưng cho 8 tiết(4). Đuôi trâu dài 1 thước 2 tấc để tượng trưng 12 tháng, đuôi phẩy về bên tả hay hữu căn cứ vào năm âm hoặc năm dương(5). Nếu năm đó nhằm năm dương thì đuôi trâu phẩy về bên tả và ngược lại. Năm dương thì miệng trâu há và ngược lại... Mang thần cao 3 thước 6 tấc 5 phân để tượng trưng cho 365 ngày trong một năm. Nét mặt của thần được tô điểm để biểu hiện vẻ trai trẻ theo các năm: tý, ngọ, mão, dậu; già theo các năm: dần, thân, tỵ, hợi và trẻ con: thìn, tuất, sửu, mùi...(6).
Sau khi làm xong trâu đất và Mang thần, Khâm Thiên Giám có nhiệm vụ xem xét ngày giờ rồi họp bàn cùng bộ Lễ chọn ngày giờ tổ chức lễ tế. Theo quy định của triều đình, cần phải chọn giờ "thìn" của ngày lập xuân, nếu giờ "thìn" lập xuân vào lúc đêm tối thì chọn giờ "thìn" sau khi trời đã sáng rõ mới làm lễ. Triều đình nhà Nguyễn quy định rằng: đối với phủ Thừa Thiên, trước lập xuân 2 ngày, các quan viên phải lựa chọn mảnh đất sạch sẽ, ngoài cửa chính đông của Kinh thành để đặt đàn tế. Các binh dịch thuộc phủ có trách nhiệm đến ty Vũ Khố nhận lĩnh các án màu đỏ mang về phủ thự để chuẩn bị thiết trí trâu đất và Mang thần trong ngày tế.
Sáng sớm trước lập xuân một ngày, phủ Thừa Thiên tổ chức làm lễ tế trâu đất và Mang thần, những người phụ trách coi việc bày đặt các hương án, nến đèn, lễ phẩm... Đến giờ lành, các viên Đề đốc, phủ Doãn, phủ Thừa... đốc suất thuộc viên mặc áo quần theo nghi thức tế giao cùng với nghi trượng, tàn, lọng, nhã nhạc đến làm lễ tại các án thờ trâu đất và Mang thần. Sau khi làm xong lễ tế, lễ rước các án thờ trâu đất và Mang thần về đặt tại nhà bộ Lễ 2 án, phủ thự Thừa Thiên 1 án. Các án thờ được canh giữ cẩn thận đợi đến hôm sau làm lễ chính thức. Từ tờ mờ sáng ngày lập xuân, phủ Thừa Thiên và các địa phương cùng tổ chức làm lễ chính. Bộ Lễ hội đồng với phủ Thừa Thiên và các quan viên ở Khâm Thiên Giám đều mặc triều phục đến làm lễ tại các án thờ trâu đất và Mang thần ở nhà bộ Lễ. Lễ tế được tổ chức long trọng theo nghi lễ cung đình. Sau khi làm lễ xong, viên phủ Doãn Thừa Thiên về phủ thự, mang trâu đất và Mang thần ra đánh 3 roi để tỏ ý khuyên cày.
Đối với các địa phương tổ chức tế và rước vào ngày lập xuân. Công việc chuẩn bị phải bắt đầu từ hôm trước, đàn tế được đặt ở hướng đông ngoài thành quách các tỉnh sở tại. Quan địa phương có nhiệm vụ đốc suất thuộc viên chuẩn bị đồ lễ chu tất, đợi đến giờ lành tất cả các quan viên đội mũ, mặc áo thường triều cùng nghi trượng, tàn lọng, nhã nhạc... đến làm lễ tế. Sau khi hoàn tất lễ tế, các án thờ trâu đất và Mang thần được rước về phủ. Quan địa phương ấy lấy roi đánh 3 roi rồi kính đặt trâu đất và Mang thần trong công sảnh.
Sau ngày tế trâu đất và Mang thần hằng năm, phủ Thừa Thiên mang trâu đất và Mang thần lần trước giao cho ty Vũ khố lưu giữ. Riêng các địa phương thì chọn mảnh đất sạch để chôn cất. Tuy nhiên, từ năm Minh Mạng thứ 11 (1830), triều đình ra lệnh cho phủ Thừa Thiên cùng bàn bạc với bộ Lễ và ty Vũ Khố lựa chọn chỗ đất sạch để chôn cất trâu đất và Mang thần của năm trước nhằm giảm tải kho lưu giữ ở Vũ Khố. Tục tế trâu đất và Mang thần vào những ngày đầu xuân là một trong những mỹ tục tồn tại dưới thời Nguyễn. Đây là một hình thức giáo dục truyền thống yêu lao động, nhắc nhở nhân dân chăm lo sản xuất, khơi dậy ý thức tự cường của nhân dân Việt
trong nhiều thế kỷ. T.V
(nguồn: TCSH số 240 - 02 - 2009)
.............................. 1. Trần Quốc Vượng – Con trâu trong văn hoá Việt
. 2. Nội các triều Nguyễn - Khâm định Đại
Hội điển sự lệ trang 246-247. 3. Mang thần tức Câu Mang thần (còn gọi là thần chăn trâu), người đời Phục Hy. Hằng năm, triều đình nhà Nguyễn và nhân dân có tục rước thần Câu Mang tượng trưng bằng đứa trẻ chăn trâu đứng cạnh con trâu. Năm nào được mùa thì đứa trẻ đi bằng cả hai chiếc giày, năm nào mất mùa thì chỉ đi một chiếc giày. Các triều vua Nguyễn đều tổ chức tế và rước con trâu và Mang thần bằng đất. Tuy nhiên, từ triều vua Khải Định trở về sau con trâu và đứa trẻ chỉ vẽ vào vải để tế và rước. 4. Người xưa phân một năm thành 4 mùa (xuân, hạ, thu, đông) và 8 tiết là: lập xuân, xuân phân, lập hạ, hạ chí, lập thu, thu phân, lập đông, đông chí. 5. Lê Khánh Trường (dịch), Từ điển văn hóa cổ truyền Trung Hoa trang 54 ghi: Cổ nhân lấy số lẻ làm dương, thiên can số lẻ gọi là can dương: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm; số chẵn làm âm, thiên can số chẵn là can âm: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý. 6. Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại
Hội điển sự lệ tập 15.
|